tag:blogger.com,1999:blog-36175118106711931572024-03-18T02:48:35.855-07:00Blog's Viet Ecology PressUnknownnoreply@blogger.comBlogger275125tag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-28949460873745366762024-03-05T18:36:00.000-08:002024-03-05T18:36:20.971-08:00Ngô Thế Vinh: Nhà văn của một thời bão nổi<p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><span style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 14.0pt; mso-ansi-language: EN-US; mso-bidi-language: AR-SA; mso-fareast-font-family: "Times New Roman"; mso-fareast-language: EN-US;">Trịnh</span><span lang="VI" style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 14.0pt; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-language: AR-SA; mso-fareast-font-family: "Times New Roman"; mso-fareast-language: EN-US;"> Y Thư</span></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><span lang="VI" style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 14.0pt; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-language: AR-SA; mso-fareast-font-family: "Times New Roman"; mso-fareast-language: EN-US;"><br /></span></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgjjXX3up8Ph9ATHPHBJLOxk48NVO2sZ0B0shyW13kB0pIBOXtN5Mf1rGXjjhCsSZkY4wWIlwCpuirKHtSQr-0MajQaktSkUEKPDoTfUIL3oGUih8fEYka-tzeRxhr7f9I6gGcnthj4_hWV0NvLRpG8VrsiUiFt4WV9qVrDfrbI4z-VwDcnPZYcEvbjgvw/s601/TYT-NgoTheVinh.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="401" data-original-width="601" height="268" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgjjXX3up8Ph9ATHPHBJLOxk48NVO2sZ0B0shyW13kB0pIBOXtN5Mf1rGXjjhCsSZkY4wWIlwCpuirKHtSQr-0MajQaktSkUEKPDoTfUIL3oGUih8fEYka-tzeRxhr7f9I6gGcnthj4_hWV0NvLRpG8VrsiUiFt4WV9qVrDfrbI4z-VwDcnPZYcEvbjgvw/w400-h268/TYT-NgoTheVinh.jpg" width="400" /></a></div><p></p><p style="text-align: center;"><em>Ngô Thế Vinh trên chuyến phà qua Sông Tiền, phía xa là cầu Mỹ Thuận trước ngày “giao long”. Mỹ Thuận là cây cầu đầu tiên của Việt Nam bắc qua Sông Mekong, nối liền hai tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long. [Photo by Nguyễn Kỳ Hùng 5.1999] </em></p>
<p>1.</p>
<p>Trong một bối cảnh đất nước nhiễu nhương, hỗn loạn, nhà văn thường đóng một vai trò quan trọng bằng cách sử dụng ngôn từ của mình để phản ánh, phê bình, truyền cảm hứng và đôi khi thậm chí thách thức hiện trạng. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhà văn phản ứng với những biến động khác nhau, cho dù đó là xã hội, chính trị hay văn hóa. Các nhà văn thường đóng vai trò là người quan sát nhạy bén về thế giới xung quanh. Trong thời kỳ hỗn loạn, họ có thể suy ngẫm về nguyên nhân và hậu quả của biến động xã hội, cung cấp những hiểu biết và phân tích có giá trị. Thông qua các tác phẩm của mình như tiểu thuyết, tiểu luận, kể cả những bài báo và xã luận, nhà văn có thể đưa ra những bình luận giúp người đọc hiểu rõ hơn về sự phức tạp của tình huống.<span></span></p><a name='more'></a><p></p>
<p> Quan trọng hơn cả, văn học luôn là phương tiện mạnh mẽ để diễn tả những trải nghiệm của con người, kể cả những thời kỳ hỗn loạn. Nhà văn có thể sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn hoặc thơ ca nắm bắt được tác động về mặt cảm xúc và tâm lý của những thời kỳ hỗn loạn. Những tác phẩm này có thể phục vụ như một hình thức thanh lọc cho cả tác giả và độc giả.</p><p>Tôi nghĩ về nhà văn Ngô Thế Vinh như thế suốt mấy chục năm qua từ khi có cơ hội đọc những cuốn tiểu thuyết của ông xuất bản trước 1975 cho đến mãi gần đây với những bài biên khảo giá trị về mối hiểm họa ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long do nguy cơ con sông Mekong đang bị thách thức trầm trọng.</p>
<p> Tác phẩm của ông thường xoay quanh các chủ đề hướng về quê hương Việt Nam, những vấn nạn mảnh đất đang gánh chịu và những con người cùng khổ trong đó. Ông là nhà văn “nổi trôi” cùng vận nước, những tư duy siêu hình mang tính triết học không nằm trong bộ từ vựng của ông Ông viết từ trái tim của mình, và những điều đó đi thẳng vào trái tim người đọc.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhLjAOAen2JlaprgdC3n4Bvv0IzBLVs2tGCLeSV8GuCZIf4P2r_uhmcAyptlM02d5w_uJ-2VsWt5O-j6fURrCTHSwkV2AU6xgcvrrbGkCwPxJiU7wtZbCP1bxrjkmQLXNjTl55OtN8X6SgaDIEriU0LOU-HbGmQtUvClyzFdpXfKfwEwDWhpsiB42qZ9zU/s483/TYT-NgoTheVinh-2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="376" data-original-width="483" height="498" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhLjAOAen2JlaprgdC3n4Bvv0IzBLVs2tGCLeSV8GuCZIf4P2r_uhmcAyptlM02d5w_uJ-2VsWt5O-j6fURrCTHSwkV2AU6xgcvrrbGkCwPxJiU7wtZbCP1bxrjkmQLXNjTl55OtN8X6SgaDIEriU0LOU-HbGmQtUvClyzFdpXfKfwEwDWhpsiB42qZ9zU/w640-h498/TYT-NgoTheVinh-2.jpg" width="640" /></a></div><p style="text-align: center;"><em>Vòng</em><em> Đai Xanh, Nxb Thái Độ Sài Gòn 1971 (trái). The </em><em>Green Belt, bản tiếng Anh, Nxb Ivy House 2004 (phải).</em></p>
<p>2.</p>
<p>Cuốn tiểu thuyết <em>Vòng Đai Xanh</em> của ông được khởi viết từ những năm giữa của thập niên ‘60, khi có phong trào FULRO nổi dậy trên Tây Nguyên (1964). Lúc đó ông đang giữ chức Chủ bút báo <em>Tình Thương</em> (1964-1966), một cơ quan tranh đấu văn hóa xã hội của sinh viên Y khoa Sài Gòn. Cuốn sách được hoàn tất trong thời gian ông gia nhập Lực lượng Đặc biệt, giữ chức vụ Y sĩ trưởng Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, với địa bàn hoạt động chính là Tây Nguyên, nhà Thái Độ xuất bản lần đầu năm 1970, và năm sau, được trao tặng giải thưởng Văn chương Toàn quốc bộ môn Văn.</p>
<p> Khi Ngô Thế Vinh hoàn tất cuốn sách này, chiến tranh Việt Nam đang đi vào giai đoạn khốc liệt nhất, đó là đầu thập niên ‘70 khi chính quyền Mỹ đẩy mạnh cuộc “Việt Nam hóa” chiến tranh để tìm cách rút lui khỏi miền Nam trong danh dự sau khi nhận ra họ không thể chiến thắng bằng quân sự mặc dù đã đổ không biết bao nhiêu tài nguyên và xương máu vào cuộc chiến. Cuộc chiến kết thúc năm năm sau đó với một kết quả và hệ quả cực kỳ bi thảm cho một tập thể con người miền Nam, hoặc bị ném vào những trại giam khắc nghiệt mệnh danh là “trại cải tạo” hoặc phải bồng bế nhau liều chết vượt biên đi kiếm sống ở những chân trời xa lạ đầy trắc trở, khó khăn. Cuộc chiến đã gây chấn thương trong lòng dân tộc, một vết thương quá lớn đến nỗi dù đã gần nửa thế kỷ trôi qua từ ngày tiếng súng ngưng nổ mà dư âm và nỗi ám ảnh quá khứ vẫn đau nhức khôn nguôi trong tâm tư người dân Việt, dù ở bên này hay bên kia chiến tuyến.</p>
<p> Sinh trưởng trong một bối cảnh lịch sử nhiễu nhương cộng thêm nhiệt huyết phẫn nộ của tuổi trẻ và lòng yêu quê hương tha thiết, nhà văn Ngô Thế Vinh đã hoàn tất tác phẩm của mình như một thực chứng cho một giai đoạn lịch sử. <em>Vòng Đai Xanh</em> được đánh giá bởi giới trí thức và phê bình là một trong những tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam trung thực nhất. Ở đây không thấy “ta-địch,” không thấy “chính-ngụy,” mà chỉ thấy nỗi thống khổ của những nạn nhân bất hạnh bị ném vào lò lửa chiến tranh bởi những mưu đồ thâm hiểm và tàn bạo của những thế lực đối nghịch sử dụng ý thức hệ và những lý tưởng tuy đẹp đẽ nhưng đầy màu sắc hoang tưởng để biện minh cho một cuộc phân liệt tranh giành ảnh hưởng, đất đai trong bối cảnh cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu.</p>
<p> Tác phẩm tiểu thuyết quan trọng khác nhà văn Ngô Thế Vinh viết trong thời đoạn này là cuốn <em>Mây Bão</em>. Cuốn sách – viết năm tác giả mới 19 tuổi, xét về mặt biên niên, là cuốn tiểu thuyết đầu tay – nhưng ngay cả thế, người đọc vẫn thấy sự tàn bạo của chiến tranh hiển hiện một cách đau đớn trên trang sách. Hãy đọc lại đôi dòng trong cuốn tiểu thuyết: “<em>Đó là một thứ nhân đạo trong chiến tranh để tránh cho đồng bạn khỏi mòn mỏi đau đớn đi dần tới cái chết và</em> <em>thực tiễn hơn nữa là để khỏi phải rơi vào tay địch, khỏi phải sợ những trường hợp bị ‘fuite’ tin cơ mật</em>.” Và cuộc “mổ sống” diễn ra như phân cảnh một cuốn phim kinh dị, rùng rợn quá sức chịu đựng cho một độc giả bình thường: “<em>Vũ nhanh nhẹn cầm dao xẻ những mảnh da thịt vắt lên, kẹp máu các động mạch rồi đưa những nhát cưa xoèn xoẹt như cưa gỗ. Mặc sức cho con bệnh la hét chửi rủa giãy giụa trên mặt bàn đã bị siết cứng. Làm gì còn thuốc mê hay gây ngủ ở chốn đèo heo hút gió này</em>…”</p>
<p> Làm sao một thanh niên 19 tuổi lại có thể viết được những dòng chữ về những điều bạo tàn dường ấy? Nhiều khi tôi tự hỏi.</p>
<p> Ngô Thế Vinh là một trong những nhà văn tích cực tham gia vận động và hoạt động thông qua tác phẩm của mình. Cụm từ “nhà văn dấn thân” có thể bị lạm dụng ở chừng mực nào đó, nhưng có lẽ khó tìm được một danh xưng nào khác nói về họ. Họ sử dụng ngòi bút như một nền tảng để nâng cao nhận thức về các vấn đề xã hội, sự bất công, thậm chí sự phẫn nộ, bất mãn. Nơi đây, nhà văn có thể truyền cảm hứng cho sự thay đổi bằng cách huy động dư luận và khuyến khích hành động tập thể. Trong thời kỳ hỗn loạn, nhà văn có thể thách thức các chuẩn mực, hệ tư tưởng hoặc quyền lực chính trị đã được thiết lập. Nhà văn Ngô Thế Vinh đã làm như thế với bút ký ngắn <em>Mặt Trận Ở Sài Gòn</em>. </p>
<p> Trong thiên truyện này, nhà văn thuật chuyện một đám lính của ông đang đi hành quân bỗng bị gọi về thủ đô Sài Gòn để dẹp một đám người biểu tình. Cảnh huống mười phần vô lý đó đã khiến ông phẫn nộ phải hạ bút viết những dòng chữ: “<em>Không lẽ những mộng tưởng binh nghiệp chỉ có thể biến chúng tôi thành những tên gác-dan cho bọn nhà giàu, một thứ cảnh sát công lộ chỉ đường trên dòng luân lưu của lịch sử… Rằng ngoài chiến trường súng đạn quen thuộc, họ còn phải đương đầu với một trận tuyến khác mỏi mệt hơn, đó là cảnh thối nát bất công của xã hội mà dân tộc đang phải hứng chịu trong tối tăm và tủi nhục</em>…”</p>
<p> Chẳng có gì ngạc nhiên, vì những dòng chữ đó mà Ngô Thế Vinh bị bắt ra hầu tòa với tội danh “<em>phổ biến những</em> <em>luận điệu phương hại trật tự công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần chiến đấu của quân đội</em>…”</p>
<p> Thật là khôi hài. Nhưng không phải vì thế mà Ngô Thế Vinh chịu khuất phục, ông vẫn tiếp tục viết như thế rải rác trên nhiều trang sách khác, chỉ vì ông là nhà văn của lương tâm. Ngoài vai trò một nhà văn, ông còn là một người lính, ông không muốn sự hy sinh của mình và các bạn đồng đội chỉ nhằm bảo vệ cho một “<em>xã hội trên cao</em>”, một xã hội hưởng thụ thừa mứa của “<em>một đám người kêu gọi chiến tranh nhưng lúc nào cũng ở trên và đứng ngoài cuộc chiến ấy</em>.”</p>
<p>3.</p>
<p>Với một tâm thức và cảm thức luôn hướng về đất nước, dân tộc, nhà văn Ngô Thế Vinh, khi bước sang lĩnh vực biên khảo, đã không chọn con đường dễ dãi ngồi nhà đọc vài cuốn sách rồi xướng lên thuyết này thuyết nọ. Ông chọn con đường gai góc hơn nhiều.</p>
<p> Trong vòng mấy chục năm qua – với hai tác phẩm quan trọng gây tiếng vang không ít, <em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng</em> và <em>Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch</em>, cộng thêm hàng chục tiểu luận biên khảo, nghiên cứu giá trị về những biến đổi nguy hại của hệ sinh thái sông Mekong – ông mặc nhiên được xem như một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này, và một cách ưu ái hơn, con chim “báo bão” về mối đe dọa thường xuyên và ghê rợn từ phương Bắc đối với sự sinh tồn của đất nước và dân tộc. Để thực hiện các bộ sách về sông Mekong ông đã lặn lội từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc xuống các quốc gia Lào, Thái Lan, Cam Bốt và đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Qua các chuyến đi quan sát thực địa, ông đã tận mắt chứng kiến sự suy thoái bất khả đảo nghịch của con sông Mekong, “<em>hậu quả dây chuyền của những bước khai thác tự hủy, tàn phá sinh cảnh, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường</em>,” do chính sách phát triển kinh tế bất chấp hậu quả tai hại ra sao của nhà cầm quyền Trung Quốc, mà Việt Nam là quốc gia lãnh chịu hậu quả nặng nề và thiệt thòi nhất.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhdtUWUOiCOtzFJMyddiWefJb_ZFtMaiII_yPjX5pFJjRIQwqEI_xCXleNs1QBEEHJyHQzW_aVN3IMG5Mg6unPWbZFY12pLIbw7ey78LyIMZLa0klEDVEwS0WvLGvAM5rstbQkpVZf5agnNLBuYOH2VIWn8BRpK1LdbmkLlItCg2Hn-wUbj7ca6vJ-UWZo/s543/TYT-NgoTheVinh-3.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="400" data-original-width="543" height="472" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhdtUWUOiCOtzFJMyddiWefJb_ZFtMaiII_yPjX5pFJjRIQwqEI_xCXleNs1QBEEHJyHQzW_aVN3IMG5Mg6unPWbZFY12pLIbw7ey78LyIMZLa0klEDVEwS0WvLGvAM5rstbQkpVZf5agnNLBuYOH2VIWn8BRpK1LdbmkLlItCg2Hn-wUbj7ca6vJ-UWZo/w640-h472/TYT-NgoTheVinh-3.jpg" width="640" /></a></div><p style="text-align: center;"><em>Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng, Nxb Văn Nghệ California 2000;The Nine Dragons Drained Dry The East Sea in Turmoil, Việt Ecology Press 2016.</em></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgilSqtjCKaKj3S2uaE400NZvGfDEKAh2QpMQP6W2kkq_yCg43tONt64SUd8-jGa7ILhyavsX6MfZH9sZxjtD_fngQPLpD0tsvcM3jTmHSa8cmMn0PMScYpQQGHAi9T3K7lGLjEM4X33bMaHN0ebFCwWQlJB-LK2xjngLfPpecuo62TH6Mzo2NycFrX8m4/s590/TYT-NgoTheVinh-4.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="456" data-original-width="590" height="494" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgilSqtjCKaKj3S2uaE400NZvGfDEKAh2QpMQP6W2kkq_yCg43tONt64SUd8-jGa7ILhyavsX6MfZH9sZxjtD_fngQPLpD0tsvcM3jTmHSa8cmMn0PMScYpQQGHAi9T3K7lGLjEM4X33bMaHN0ebFCwWQlJB-LK2xjngLfPpecuo62TH6Mzo2NycFrX8m4/w640-h494/TYT-NgoTheVinh-4.jpg" width="640" /></a></div><p></p><p style="text-align: center;"><em>Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch; Nxb Văn Nghệ, California 2007. Mekong The Occluding River; iUniverse, Inc.2010 </em></p>
<p>Gần đây hơn, chính xác là năm 2023, ông liên tiếp tung ra một loạt những bài biên khảo về dự án kênh Phù Nam Techo, một thủy lộ vận tải đầu tiên của <a id="_Hlk152860098" name="_Hlk152860098">Cam Bốt </a> nối liền hệ thống sông Mekong và đường biển. Nhà văn Ngô Thế Vinh cảnh báo rằng con kênh này, do nhà nước Cam Bốt đang gấp rút triển khai, “<em>không chỉ có mục đích đơn thuần nhằm giải quyết những thách đố khó khăn trong lãnh vực vận chuyển đường thủy, nhưng xa hơn thế, đây là một Con Kênh Đa Năng với nhiều tham vọng, nhằm kích hoạt các hoạt động kinh tế và xã hội tới một tầm mức cao mới</em>.” Và quan trọng hơn hết, sự phát triển có tính bừa bãi, bất chấp đến hệ sinh thái thiên nhiên, sẽ gây nên tình trạng tàn phá rộng rãi, “<em>một Biển Hồ như trái tim của <a id="_Hlk152860193" name="_Hlk152860193">Cam Bốt</a> chỉ còn một nhịp đập thoi thóp do thiếu nước, không còn sáu tháng với nước sông Mekong chảy ngược vào Biển Hồ, nơi cũng là vựa cá lớn nhất và là nguồn protein chính của người dân Cam Bốt</em>.”</p>
<p> Lời cảnh báo của nhà văn Ngô Thế Vinh từ mấy chục năm nay có tính tiên tri. Thực tế cho thấy, mùa khô những năm gần đây, tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn thường xuyên xảy ra ở các địa phương vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đơn cử thời điểm giữa mùa khô 2021-2022, nước mặn từ biển theo các kênh rạch xâm nhập sâu vào nội đồng các huyện Long Phú, Trần Đề, Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng với nồng độ mặn rất cao, gây ảnh hưởng đến sản xuất, sinh hoạt của người dân. </p>
<p> Báo chí địa phương và cả các cơ sở thông tin quốc gia cho biết là vào khoảng cuối tháng 2 năm 2022, nồng độ mặn đo được tại các trạm trên một số tuyến sông, kênh rạch ở các huyện tỉnh Sóc Trăng dao động từ 2,5 đến trên 18,4‰. Không chỉ thế, nước mặn từ biển ngày càng tiến sâu vào đất liền và ngâm lâu ở các kênh, rạch, gây nhiều khó khăn cho người dân lấy nước cho việc sản suất, sinh hoạt. Tại thành phố Cần Thơ, từ năm 2015 đến nay, một số khu vực thuộc địa bàn thành phố xuất hiện rõ nét tình trạng mặn xâm nhập từ biển vào qua tuyến sông Hậu.</p>
<p> Liệu có ngày có hiện tượng “Cửu Long cạn dòng” không? Dĩ nhiên ta phải hiểu “cạn dòng” đây là cạn dòng nước ngọt, nước sẽ vẫn lênh láng trên mặt sông, nhưng là nước biển mặn, chẳng còn phù sa màu mỡ tưới khắp ruộng đồng nữa. Lúc đó có ai còn nhớ đến Ngô Thế Vinh không?</p>
<p>4.</p>
<p>Nhà văn Ngô Thế Vinh và tôi có mối giao tình từ lâu. Tôi quý mến và quý trọng nhân cách, tài năng của ông, ngược lại, ông cũng rất quý mến tôi. Điều đó tôi nghĩ một phần là do tấm lòng nhân hậu của ông. Sự nhân hậu đối với bằng hữu đã khiến ông cho xuất bản bộ sách <em>Tuyển Tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa</em> gồm hai tập. Đó là một bộ sách vẽ “chân dung” bằng chữ nghĩa các văn nghệ sĩ và các nhà văn hóa trong mắt nhìn của ông. </p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLBrGCRCkbbVRUJSx4cS861vXBDqTimMGzzqXf1paCv0tomwR9Rj6WCmPjklHQFOXpNnAnEE5COmDnA7I95nUhAuZH-aqfPVX2haZGw3hxP7v0xxJTbEB2IkjgSbfNUi7CI8frNT9FtYnhIz3OiB8KcZ5q-sTDAin-uopMDhlvbyVDTPNRqWoxm2DcrHE/s523/TYT-NgoTheVinh-5.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="378" data-original-width="523" height="462" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLBrGCRCkbbVRUJSx4cS861vXBDqTimMGzzqXf1paCv0tomwR9Rj6WCmPjklHQFOXpNnAnEE5COmDnA7I95nUhAuZH-aqfPVX2haZGw3hxP7v0xxJTbEB2IkjgSbfNUi7CI8frNT9FtYnhIz3OiB8KcZ5q-sTDAin-uopMDhlvbyVDTPNRqWoxm2DcrHE/w640-h462/TYT-NgoTheVinh-5.jpg" width="640" /></a></div><p>Những chân dung văn học nghệ thuật và văn hóa, qua giọng văn đầy thân ái và nhân hậu của nhà văn Ngô Thế Vinh, là một công trình biên soạn phong phú tư liệu, một tập hợp quý hiếm quy tụ những khuôn mặt văn nghệ và văn hóa tiêu biểu của một thời đại vốn được xem là nhiễu nhương nhất của dân tộc, suốt nửa sau thế kỷ XX cho đến nay. Ngô Thế Vinh không khoác áo nhà phê bình, ông không làm kẻ đứng trên bục giảng nghiêm khắc phê phán tác phẩm hay sự nghiệp mỗi văn nghệ sĩ được nhắc đến. Ông không làm thế, bởi họ chẳng phải ai xa lạ mà chính là những bằng hữu văn nghệ, những vóc dáng tài năng, gần như trọn đời người, đã cùng ông dấn thân trên những chặng đường trắc trở nhất, trong những điều kiện ngặt nghèo nhất, để xây dựng một nền văn nghệ nhân bản đích thực và có giá trị nghệ thuật cao cho dân tộc. Ông mượn tác phẩm của họ như cái cớ để ngồi xuống nhẩn nha lần giở từng trang ký ức bộn bề, len lỏi vào từng ngõ ngách tâm hồn dưới lớp bụi dày thời gian, cố tìm lại những cung bậc hoài niệm mù tăm để làm nên những trang viết thật đẹp, thật ấm áp tình bằng hữu, thật chan chứa tình người. Tất cả những gì ông viết trong bộ sách gần như chỉ là những nét phác họa đại cương về con người, khung cảnh sống, hoàn cảnh sáng tạo của những văn nghệ sĩ, mà chính ông cũng là một thành viên. Đan xen vào đấy là những không gian và thời gian kỷ niệm, đầy ắp kỷ niệm, kỷ niệm nào cũng được nâng niu, trân quý như món bảo vật khó tìm. Tuy thế, đọc kỹ hơn, chúng ta có thể cảm nhận ra một điều, là bên dưới lớp sắc màu tương đối hiền hòa, dịu êm ấy là niềm xác tín chắc nịch, một cái nhìn quả quyết cộng thêm chút tự hào, về một nền văn nghệ, văn hóa miền Nam Việt Nam tự do thời kỳ 54-75 và, trong chừng mực nào đó, vẫn tiếp nối ở hải ngoại, mà sự đột phá về các mặt tư tưởng, nghệ thuật, nhân sinh, tưởng như chưa thời nào qua mặt nổi.</p>
<p> Bộ sách hai tập ấy có những trang viết chân tình, đẹp đến nao lòng. Tình bằng hữu, nhất là bằng hữu văn nghệ, không phải một sớm một chiều có ngay. Từ điểm hội tụ, nó cần được chưng cất, tinh luyện nhiều tháng năm với tấm lòng chân thành, tha thiết. Điểm hội tụ đó chính là lòng đam mê văn chương, nghệ thuật mà Ngô Thế Vinh cùng các bằng hữu của ông có thừa.</p>
<p>5.</p>
<p>Hình như tố chất đam mê đã chảy rất sớm trong huyết quản nhà văn Ngô Thế Vinh. Chính niềm đam mê đã giúp ông suốt văn nghiệp có thể đảm nhận trách nhiệm bảo tồn ký ức văn hóa và lịch sử của xã hội Việt Nam trong thời kỳ nhiễu loạn. Thông qua các tác phẩm tiểu thuyết cũng như biên khảo, hoặc các tài liệu phi hư cấu, ông góp phần tạo nên ký ức chung và giúp đảm bảo rằng những câu chuyện quan trọng không bị lãng quên.</p>
<p> Trong những thời điểm xung đột hoặc chia rẽ, ông đã cố gắng xây dựng những cầu nối hiểu biết giữa các nhóm khác nhau. Thông qua công việc của mình, ông nuôi dưỡng sự đồng cảm và thúc đẩy đối thoại, tìm kiếm điểm chung và tính nhân văn chung.</p>
<p> Ngay cả trong những thời điểm đen tối nhất, một nhà văn như Ngô Thế Vinh vẫn có thể mang đến cảm giác hy vọng và cảm hứng. Thông qua lời nói của ông, chúng ta có thể đưa ra tầm nhìn về một tương lai tốt đẹp hơn, thúc đẩy các cá nhân kiên trì và hướng tới sự thay đổi tích cực.</p>
<p> Nói như thế bởi tôi luôn luôn nghĩ ông là kẻ dầm mình đi trong bão tố để tìm con đường sáng sủa hơn cho tương lai dân tộc Việt Nam, một dân tộc chịu quá nhiều khổ đau và thiệt thòi.</p>
<p>TRỊNH Y THƯ<br />
[Ngôn Ngữ Đặc Biệt Tháng 2.2024]</p>
<p> </p>
<p><strong><em>TRỊNH</em></strong><strong><em> Y THƯ</em></strong></p><p><strong> </strong><b><i><br /></i></b>
<em></em></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><em><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiDCgv_dIi8Levmu3eCV_-CMl9WDVHuEx0FlgnneRhWVrh5BcvHedJ6f8YY1WTTEeH17yf6Aknfc_XlfKtvRaziarDsjU17THnkSs-MmB-v_rZ9nKgXGmxRgpJ_jp_lle5b5-KbyBO6nal6DyDANjRa8yEBOoQctn3qXS4fKRPGOgwOcA_kScAarTW0IsY/s577/TYT-NgoTheVinh-6.png" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="433" data-original-width="577" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiDCgv_dIi8Levmu3eCV_-CMl9WDVHuEx0FlgnneRhWVrh5BcvHedJ6f8YY1WTTEeH17yf6Aknfc_XlfKtvRaziarDsjU17THnkSs-MmB-v_rZ9nKgXGmxRgpJ_jp_lle5b5-KbyBO6nal6DyDANjRa8yEBOoQctn3qXS4fKRPGOgwOcA_kScAarTW0IsY/s320/TYT-NgoTheVinh-6.png" width="320" /></a></em></div><em>Sinh 1952 tại Hà Nội. Viết văn, làm thơ, dịch. Nguyên Chủ bút tạp chí Văn Học (California). Đương chăm sóc cơ sở xuất bản Văn Học Press; Chủ bút Việt Báo Weekly.</em><em>Tác phẩm dịch đã xuất bản:</em>Đời nhẹ khôn kham<em> (The Unbearable Lightness of Being</em><em> –</em><em> Milan Kundera)</em><em>;</em>Căn phòng riêng<em> –</em><em> Virginia Woolf;</em>Jane Eyre<em> –</em><em> Charlotte Brontë;</em>Gặp gỡ với định mệnh<em> – </em><em>nhiều tác giả;</em>Tập sách cái cười & sự lãng quên<em> (The Book of Laughter and Forgetting</em><em> –</em><em> Milan Kundera)</em><em>.</em><em> Sáng tác đã xuất bản:</em>Người đàn bà khác<em> (</em><em>tập truyện</em><em>)</em><em>;</em>Chỉ là đồ chơi<em>(</em><em>tạp bút</em><em>)</em><em>;</em>Phế tích của ảo ảnh<em> (</em><em>thơ</em><em>)</em><em>;</em>Theo dấu thư hương<em> (</em><em>tạp luận</em><em>)</em><em>.</em><em>Hiện định cư tại California, Hoa Kỳ.</em><p></p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-61734663049732984182024-02-23T19:49:00.000-08:002024-02-23T19:49:43.916-08:00Theo Dấu Ngô Thế Vinh Qua Những Trang Văn<p style="text-align: center;"><span lang="VI" style="font-family: "Times New Roman","serif"; font-size: 14.0pt; line-height: 107%; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-language: AR-SA; mso-fareast-font-family: Calibri; mso-fareast-language: EN-US; mso-font-kerning: 1.0pt;">TRẦN THỊ NGUYỆT MAI</span></p><p>Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với <em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng</em> và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với <em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng</em> và <em>Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch.</em></p>
<p> Một trùng hợp thật ngẫu nhiên khi tạp chí văn học nghệ thuật Ngôn Ngữ phát hành vào tháng 2-2024 cũng vào dịp Tết Giáp Thìn 2024 ra số đặc biệt giới thiệu Bác sĩ / Nhà văn / Nhà hoạt động môi sinh Ngô Thế Vinh. Năm Rồng, giới thiệu người kết nghĩa với Cửu Long, tưởng không còn gì thích hợp hơn.<span></span></p><a name='more'></a><p></p>
<p> Như trong bài Tựa viết cho tập truyện “Mặt Trận Ở Sài Gòn”, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng nhận định: <em>“Không có một khoảng cách nào giữa tác giả và những trang viết của ông. Người đọc có cơ hội theo dõi những tác phẩm của Ngô Thế Vinh, từ tiểu thuyết đầu tay </em>Mây Bão<em> xuất bản vào thập niên 60 tại Sài Gòn, đến tập truyện </em>Mặt Trận Ở Sài Gòn<em> này, vào giữa thập niên 90 ở California Hoa Kỳ, chắc chắn sẽ nhận ra ngay điều này: Ngô Thế Vinh trong sách và Ngô Thế Vinh ngoài đời chỉ là một.”</em> Thế nên người viết mạo muội lần theo những trang sách, lắp ghép những mảnh puzzles đó đây, để mong được biết thêm về ông. Hy vọng bài viết sẽ góp chút tài liệu nhỏ nhoi cho những thế hệ sau tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời và văn nghiệp của một thầy thuốc tận tụy với bệnh nhân, một nhà văn luôn muốn hướng ngòi viết đến cải cách xã hội, có tầm nhìn xa đã quan tâm sâu sắc tới vấn đề Kinh-Thượng ngay khi còn là sinh viên Y khoa, và cũng là nhà môi sinh gióng tiếng chuông “Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng” từ hơn 20 năm nay. Một luận án tiến sĩ về ông chắc chắn sẽ mở ra nhiều vấn đề lý thú. Rất mong các bạn trẻ sẽ quan tâm.</p>
<p><strong>NHỮNG NGÀY THƠ ẤU</strong></p>
<p> Ngô Thế Vinh, chính quán tại Hà Nội, nhưng ông chào đời ngày 1-4-1941 ở thị xã Thanh Hóa, nơi thân phụ ông là giáo sư dạy Pháp văn tại Collège Thanh Hóa. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng phát, với chính sách tiêu thổ kháng chiến, cả một thị xã bị san bằng, gia đình ông phải tản cư về Bồng Trung, một làng quê bên bờ con sông Mã thuộc Liên khu IV, được coi như an toàn khu thời bấy giờ [1]. Ông xuất thân trong một gia đình trí thức. Thân phụ nguyên là giáo sư Pháp văn trung học Khải Định tại Huế từ trước thập niên 1940s, khi ông chưa ra đời, cùng thời và cũng là bạn với họa sĩ Mai Trung Thứ, là giáo sư hội họa tại trường này <a id="_Hlk150789608" name="_Hlk150789608">[2]. </a>Gia đình ông có ba anh em trai, tất cả đều thành đạt. Anh cả Ngô Thế Cường (1936 – 2022) nối nghiệp bố, nguyên Giáo sư Anh văn trung học Nguyễn Trãi, Sài Gòn. Anh thứ Ngô Thế Hùng (1939 – 2023), nguyên Dược sĩ Trung tá Quân lực VNCH và Ngô Thế Vinh là út, nhà văn, nguyên Y sĩ Đại úy Quân lực VNCH.</p>
<p> Tuổi thơ đã được ông ghi lại: “... trên những thửa lúa vàng, giữa tuổi ấu thơ, tôi đã cùng với đám trẻ quê nghêu ngao hát bài <em>Em Bé Quê</em> và mấy bài ca kháng chiến khác của Phạm Duy. Ký ức chiến tranh lúc đó chỉ là hình ảnh một thị xã Thanh Hóa đang nguyên vẹn đẹp đẽ bị san bằng do chính sách <em>“tiêu thổ kháng chiến” </em>của Việt Minh. Liên Khu IV vẫn được coi như an toàn khu, không có lính Tây Lê-dương đến càn quét, và cảnh bom đạn nếu có là từ trên cao, với những chiếc máy bay Bê-Vanh-Nớp / B29 của Pháp bay dọc theo con sông Mã, gầm rú trên bầu trời, rồi từng đợt xả xuống những băng đạn lửa đum đum bắn chìm các thuyền đò, không có bộ đội chỉ có dân dã buôn bán di chuyển trên sông. Cảnh tang thương chết chóc lớn nhất mà tuổi thơ tôi đã chứng kiến là từng đợt máy bay Pháp bỏ bom oanh tạc ngôi chợ Rừng Thông với nhiều máu me và xác chết.” [1]</p>
<p><strong>THỜI THANH NIÊN</strong></p>
<p> Năm 1952, khi được 11 tuổi, ông cùng gia đình từ Thanh Hóa hồi cư về Hà Nội [1]. Rồi thời cuộc chuyển biến, theo dòng người di cư năm 1954, gia đình ông trở lại Huế lần thứ hai. Cha ông tiếp tục dạy tại trường <a id="_Hlk154627486" name="_Hlk154627486">Khải </a>Định, còn NTV cũng đổi trường từ trung học Chu Văn An (Hà Nội) chuyển sang trường Nguyễn Tri Phương rồi Khải Định - Quốc Học (Huế). Năm 1955, khi 14 tuổi, một kỷ niệm vẫn đậm sâu trong tâm trí là ngày ông được tuyên hứa – niềm mơ ước của hầu hết Hướng Đạo sinh vừa nhập đoàn. NTV nhớ lại, “Đó là vào một buổi sáng tinh sương, trời đầy sương mù, mặt trời chưa hoàn toàn ló dạng, nơi đồi Vọng Cảnh [tây nam cố đô Huế], lúc ấy còn hoang sơ. Cũng chính tại nơi đây vào năm 1789, Vua Quang Trung đứng trước ba quân ban lời hiểu dụ trước khi xuất quân ra Bắc tiêu diệt 20 vạn quân Thanh nơi thành Thăng Long, một huyền sử rất ‘Quốc Văn Giáo Khoa Thư’ nhưng sao chẳng thể nào quên... Tuy thời gian sinh hoạt Hướng Đạo rất ngắn ngủi, chỉ khoảng hơn 2 năm, nhưng lại có một ảnh hưởng thật lâu dài với tôi cho tới những năm về sau này.” Cũng trong năm đó, thân phụ ông qua đời. Rồi khi hai anh đã đậu Tú Tài I & II cũng là lúc NTV học xong lớp Đệ Tam (1957) gia đình ông chuyển vào Sài Gòn để chuẩn bị cho ba anh em vào đại học. Lần chuyển trường thứ ba này, NTV học tại Chu Văn An (Sài Gòn) hai năm cuối của bậc trung học. Trong cuộc phỏng vấn với nhà văn Nguyễn Mạnh Trinh năm 1996, ông chia sẻ: “Vẫn còn mẹ và anh, nhưng tôi ra đời sớm. Vào ở Đại học xá Minh Mạng khi vừa xong trung học” [3]. Đó là vào năm 1959, 18 tuổi, ông theo học Đại học Khoa học Sài Gòn, là sinh viên lớp dự bị Y khoa PCB / <em>Physique Chimie Biologie</em> niên khóa 1959-1960 [2]. Sau đó ông vào học trường Y khoa Saigon. </p>
<p> Ông chia sẻ: “Bước vào năm đầu y khoa, thay vì như các bạn đồng khóa tập trung vào học tập, tôi đã không được gương mẫu như vậy, sớm say mê chuyện viết lách làm báo và cả rong chơi với giới nghệ sĩ nhóm bạn Nghiêu Đề, thường lui tới xóm Bùi Viện gần Ngã tư Quốc tế, ngay từ lúc họ như những ‘viên ngọc ẩn thạch’, giới hội họa như Nguyễn Trung, Cù Nguyễn, Lâm Triết, Nguyên Khai; nhóm thơ văn Trần Dạ Từ, Nguyễn Đức Sơn / Sao Trên Rừng, Trần Tuấn Kiệt, Trần Đức Uyển / Tú Kếu, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Nguyễn Thụy Long, mỗi người một vẻ với khao khát nghệ thuật là mẫu số chung mà họ hướng tới...” [2].</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj5pKpPvWWm-ncUTTxyoyeKQoo8PPzfFtYbu-r2TcevmZYfO4AGWwAxC9euuyzREGUOGWASEYHOadHDIWIvLmFMa5Fd2-k72VhjAnRIA2keYhhHaJ-ByNhMyddGdeW-9vE07cSKsrhSXf4B7XLySg38ju6QejAcfndhIm_-KNfppMrrIj-XVtreYtuvPvo/s422/TheoDauNTV-1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="422" data-original-width="316" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj5pKpPvWWm-ncUTTxyoyeKQoo8PPzfFtYbu-r2TcevmZYfO4AGWwAxC9euuyzREGUOGWASEYHOadHDIWIvLmFMa5Fd2-k72VhjAnRIA2keYhhHaJ-ByNhMyddGdeW-9vE07cSKsrhSXf4B7XLySg38ju6QejAcfndhIm_-KNfppMrrIj-XVtreYtuvPvo/w300-h400/TheoDauNTV-1.jpg" width="300" /></a></div><p align="center"><strong><em>Hình 1: </em></strong><em>Những ngày thơ ấu ở Hà Nội 1953, hình chụp ba anh em và cụ thân sinh, kỷ niệm ngày Ngô Thế Vinh học sinh trường Hàng Than, mới đậu tiểu học và chuẩn bị vào trường Trung học Chu Văn An Hà Nội; từ trái, anh Ngô Thế Hùng, anh Ngô Thế Cường, Giáo sư Ngô Văn Bắc - GS trường Trung học Trưng Vương Hà Nội, và Ngô Thế Vinh. </em>[tư liệu gia đình NTV]<strong></strong></p>
<p><strong>MÂY BÃO – TIỂU THUYẾT ĐẦU TAY (1963)</strong></p>
<p> Rất yêu văn chương do sớm được đọc những cuốn sách trong tủ sách của thân phụ trong đó có sách của Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng không như những tác giả khác khởi nghiệp từ những truyện ngắn, tác phẩm đầu tay của ông là tiểu thuyết <em>Mây Bão</em>, “mang nhiều dự phóng nhưng không ngờ cũng lại tiên tri cho một cuộc hành trình với rất nhiều gian truân nhưng không tới” [3], hoàn tất vào cuối năm 1962, lúc 21 tuổi. Mây Bão được nhà xuất bản Sông Mã của chính ông và Nghiêu Đề tạo dựng, phát hành vào năm sau, 1963, với bìa do họa sĩ Nghiêu Đề thực hiện. Ông đã chia sẻ kỷ niệm đáng nhớ về bản thảo cuốn sách này “là với Bộ Thông tin, khi lần đầu tiên được ông giám đốc Hội đồng Kiểm duyệt lên lớp thế nào là trách nhiệm của người cầm bút, rằng phải phản ánh chính diện cái xã hội mà nhà văn đang sống thay vì phản diện. Dĩ nhiên quan niệm viết của tôi lúc đó rất khác ông và ngay cho đến bây giờ vẫn không thay đổi.” [3]</p>
<p> Ông tâm sự: “Khi còn là một sinh viên, như các bạn đồng trang lứa, chúng tôi quan tâm tới những vấn đề xã hội. Mơ ước và phấn đấu cho công bằng xã hội, tôi nghĩ đó là giấc mơ chung của lứa tuổi thanh niên. Dĩ nhiên không đơn giản để tìm một con đường đi tới giấc mơ ấy. Từ những quan niệm khác nhau, phương thức hành động khác nhau, nảy sinh ra những đấu tranh và thuyết phục. Hòa mình vào dòng sinh hoạt chung ấy, bảo rằng đó là hoạt động chính trị, theo một nghĩa rộng điều đó không sai. Nhưng nếu chính trị hiểu theo nghĩa phe nhóm đảng phái, thì tôi chưa hề tham gia và cũng không muốn dấn thân vào con đường chông gai ấy...” [3]</p>
<p><strong>NGUYỆT SAN TÌNH THƯƠNG (1963–1966)</strong></p>
<p> Nhiều biến động chính trị đã xảy ra tại Miền Nam Việt Nam trong năm 1963. Mở đầu là “cuộc tranh đấu đòi quyền bình đẳng tôn giáo của Phật Giáo Việt Nam bắt đầu ở Huế với cái chết của tám Phật tử đêm 8/5/1963 tại đài phát thanh, rồi cuộc tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963 tại Sài Gòn và chiến dịch tấn công chùa chiền toàn quốc đêm 20 rạng ngày 21/8/1963. Ba biến cố quan trọng của phong trào Phật Giáo tranh đấu này dẫn đến cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng kéo dài nửa năm và kết thúc bằng cuộc chính biến lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 1-11-1963.” [4]</p>
<p> Sau cuộc chính biến ấy, tờ báo Tình Thương, cơ quan tranh đấu văn hóa xã hội của sinh viên Y khoa đã ra đời. Theo lời kể của Bác sĩ Trần Xuân Dũng (YK 1965), “Vài tuần sau khi cuộc cách mạng 1-11-1963 thành công, anh Trần Xuân Ninh, lúc đó vừa học hết năm thứ 6 Y Khoa, nảy ra ý kiến, cần phải xuất bản một tờ báo cho Sinh viên Y Khoa. Anh bèn tự đánh máy trên giấy stencil một giấy mời rồi đem đi in ronéo, và phổ biến tại trường và các bệnh viện, thỉnh cầu anh em sinh viên tới họp để bàn vấn đề này. Tới ngày giờ ấn định, gần 50 sinh viên có mặt. Trần Xuân Ninh mở đầu cuộc họp, trình bày những lý do tại sao Sinh viên Y Khoa cần phải có một diễn đàn của chính mình, một cơ quan ngôn luận riêng. Sau hơn 3 giờ bàn luận, mọi người đều đồng ý là phải xuất bản một tờ báo. Toàn thể anh em đề nghị Trần Xuân Ninh làm Chủ nhiệm. Anh Ninh từ chối, lý do là chỉ còn 3 tháng nữa anh sẽ phải lên đường nhập ngũ...” [5] Tình Thương số 1 đã phát hành vào tháng 1/1964 với Chủ nhiệm: Phạm Đình Vy, Chủ Bút: Nguyễn Vĩnh Đức, Tổng Thư ký: Trần Xuân Dũng, Thư ký: Nghiêm Sỹ Tuấn, Quản lý: Phạm Như Bách và Ban biên tập gồm Trần Đông A, Hoàng Thiện Căn, Tôn Thất Chiểu, Lê Quang Dũng, Nghiêm Đạo Đại, Vũ Thiện Đạm, Nguyễn Long Hợp, Dương Hồng Huy, Trần Mộng Lâm, Phạm Văn Lương, Trần Xuân Ninh, Hồ Tấn Phước, Lê Sỹ Quang, Ngô Thế Quí, Hà Ngọc Thuần, Trương Thìn, Tô Văn Thình, Đỗ Hữu Tước, Đỗ Thị Văn, Ngô Thế Vinh, Đặng Vũ Vương. Ngô Thế Vinh đã gắn bó với tờ báo này ngay từ số 1 cho tới số 30 (tháng 6/1966) khi tờ Tình Thương bị Nội các Chiến tranh đóng cửa [6], trong ban biên tập, nguyên tổng thư ký (từ Tình Thương số 9 tháng 9/1964) rồi chủ bút (từ Tình Thương số 25-26 tháng 1&2/1966).</p>
<p>Xuyên suốt thời gian ấy, tờ báo có nhiều khuynh hướng khác nhau như NTV đã trình bày trong “Tìm lại thời gian đã mất: Nguyệt san Tình Thương 1963-1967”:</p>
<ul>
<li> Khuynh hướng đại học/ <em>academic</em> phải kể tới Nghiêm Sỹ Tuấn, Đặng Vũ Vương, Bùi Thế Hoành [Bùi Thế], Hà Ngọc Thuần, Nguyễn Vĩnh Đức... </li><br />
<li>Sinh hoạt văn nghệ: với Lê Văn Châu [Trang Châu], Đỗ Nghê [Đỗ Hồng Ngọc], Hằng Hà Sa [Tôn Thất Chiểu], Đặng Đức [Đặng Đức Nghiêm], Trần Đoàn, Phạm Hồng [Phạm Đình Vy]...</li><br />
<li>Riêng trang phiếm luận <em>“Ngang Dạ”</em> với <em>logo</em> là một biếm họa qua nét vẽ tài hoa của Hoàng Thiện Căn trên mỗi số báo là một tiết mục vui tươi được nhiều người đọc, do các cây viết như Trần Xuân Dũng, Trần Đông A, Nguyễn Thanh Bình, Trần Mộng Lâm. Trang <em>“Thế Giới Chúng Tôi”</em> do Đỗ Hữu Tước [Đỗ Trần] phụ trách, là<em> </em>tạp ghi những mẩu chuyện liên quan tới thế giới những người Áo Trắng...</li><br />
<li>Thiên về chính trị Phạm Văn Lương, Trần Xuân Ninh, Phạm Đình Vy, Hà Xuân Quỳnh [Cát Quỳnh], Đường Thiện Đồng, Trương Thìn [Lê Trương].</li><br />
<li>Những cây viết khác mà tôi còn nhớ được ... như Lê Sỹ Quang, Nguyễn Tường Giang, Vũ Văn Dzi, Dương Hồng Huy, Ngô Thế Quý, Phạm Bá Lương, Phan Giang Sang, và giai đoạn sau có thêm Vương Ngọc Lâm, Vương Ngọc Phát… Về trang sinh hoạt sinh viên, thời sự, phóng sự do Ngô Thế Vinh và Phạm Đình Vy. Phụ trách Hộp Thơ và trả lời thư tín do Trang Châu.</li><br />
<li>Các bạn đồng môn như Nghiêm Đạo Đại, Trần Công Phát, Trần Nguyên Tường, Phạm Văn Hanh, Đỗ Thị Văn, Đặng Ngọc Cương và những anh chị khác nữa đã cùng góp sức với sinh hoạt Tình Thương mà nay không thể nhớ hết… và cũng không thể không kể tới số bài viết từ những phân khoa khác như Bùi Khiết bên Dược khoa, và cả các cây viết bên ngoài như thơ Lữ Quỳnh, Ninh Chữ, Từ Kế Tường, Nguyễn Đắc Xuân…</li><br />
<li>Về trình bày và biếm họa cho tờ báo chủ yếu là hai họa sĩ cây nhà lá vườn rất tài hoa là Liza Lê Thành Ý, Kathy Bùi Thế Khải, có thêm cả Hoàng Thiện Căn và không thể không nhắc tới một tài năng của Hội Họa Sĩ Trẻ là Nghiêu Đề cũng đóng góp những mẫu bìa rất đẹp cho các số báo Xuân lúc đó như Bách Khoa và Tình Thương.</li>
</ul>
<p> Tuy là báo sinh viên nhưng cũng có các bài viết khá thường xuyên của các Giáo sư Y khoa. Như GS Trần Ngọc Ninh viết về các vấn đề Giáo Dục và Tinh Thần Đại Học, hai Giáo sư Nguyễn Đình Cát và Bằng Vân Trần Văn Bảng viết về các đề tài Văn chương và Y khoa, GS Ngô Gia Hy viết về phân tích chính trị thời sự, Bác sĩ Vũ Thị Thoa từ BV Nhi Đồng cũng viết bài đăng tải trên Tình Thương…” [7]</p>
<p>Từng số báo đưa ra những vấn đề thời sự nóng bỏng, kèm theo những thiên phóng sự, phỏng vấn rất hấp dẫn... Chẳng hạn TT số 19 (tháng 7/1965) có Phỏng vấn Tướng Thi về thời cuộc & Phỏng vấn Donald K. Emmerson, Phó chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Hoa Kỳ về thái độ của sinh viên Mỹ đối với cuộc chiến tranh VN. TT số 25&26 (tháng 1&2/1966) về Chủ quyền lãnh thổ Việt Nam và những sự thật về Fulro với ví von thật sống động “Fulro, một cỗ xe với ba tên xà ích phiêu lưu”, cùng những bài viết, tài liệu rất quý của Phạm Đình Vy, Ngô Thế Vinh, Ya Ba và Nguyễn Tường Vũ cộng thêm Phỏng vấn Nay Luett, một nhân sĩ cấp tiến Thượng. TT số 28 (tháng 4/1966) chủ đề Nông thôn Việt Nam và công thức Kibbutz Do Thái với bút ký “Bốn tuần trong Kibbutz” của Đường Thiện Đồng. TT số 29 (tháng 5/1966) có Chín mươi sáu phút với Thượng tọa Thích Trí Quang và phóng sự Về Miền Trung sau những ngày bão lửa chính trị... [8]</p>
<p> Với nội dung phong phú, như nhà báo Hoàng Ngọc Nguyên nhận định, “một tờ báo sinh viên nhưng vượt cả những rào cản thường tình của một tờ báo sinh viên để dấn thân vào cuộc sống của đất nước, của xã hội” [9], báo Tình Thương ngày một lớn mạnh, “đã thu hút thêm nhiều độc giả, không chỉ trong giới sinh viên mà cả ngoài dân chúng qua hệ thống phát hành báo chí ... ra xa tới tận miền Trung... Khoảng tháng 6/1964, tức chỉ nửa năm sau ngày xuất bản, Tình Thương đã có đủ phương tiện để thuê một tòa soạn khang trang có cả thư ký, ở địa chỉ 103 Nguyễn Bỉnh Khiêm Sài Gòn.” [7] </p>
<p> Ngô Thế Vinh say mê làm báo, viết bài. Nhờ Tình Thương “có khả năng – dĩ nhiên bằng phương thức nghèo”, nên ông đã có điều kiện “ra miền Trung, lên Cao nguyên để làm những phóng sự đặc biệt tại chỗ”, và vẫn còn nhớ “Quảng Ngãi trắng khăn tang sau vụ lũ lụt lớn nhất miền Trung; chứng kiến đơn vị Thủy quân Lục chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Lệ Mỹ – nước mắt người Mỹ ở Đà Nẵng; sinh hoạt cố đô Huế khi sinh viên chiếm đài phát thanh và nhất là những lần lên Pleiku, Kontum, Ban Mê Thuột để theo dõi các vụ bạo loạn của người Thượng thuộc phong trào FULRO...” [3] Ông yêu nghiệp báo đến nỗi tuy đang năm thứ tư nhưng đã “có ý định bỏ học để có toàn thời gian theo đuổi những sinh hoạt báo chí... Bây giờ nhớ lại, tôi không thể không cám ơn anh tôi đã khuyên tôi hoàn tất hai năm còn lại để ra trường và lúc đó không có ai cản trở tôi làm những công việc mà tôi thích” [3], như ông đã chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn.</p>
<p> Hoạt động đến số 30 (tháng 6/1966), Tình Thương bị Nội các Chiến tranh của Tướng Nguyễn Cao Kỳ đóng cửa, [6] khép lại một thời kỳ làm báo rất sôi nổi, tâm huyết của những người áo trắng.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhGm4jsICEpPO8iu2OmyN-4pYIGgVtb5ZPfh6IcUoLugwZs8E0_hoWEavFSxalIR9FE2mJeknpZVhkSkeXRM39XRCanm54I7zlG-SjUO5_nzeXxxbIlAzxtFERfOLjxauGQyfKuuRCxIQyBrrt1P_SR434AVrqBk0YPevYWVLDPPWQ8xzRq040kK6qel28/s464/TheoDauNTV-2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="395" data-original-width="464" height="340" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhGm4jsICEpPO8iu2OmyN-4pYIGgVtb5ZPfh6IcUoLugwZs8E0_hoWEavFSxalIR9FE2mJeknpZVhkSkeXRM39XRCanm54I7zlG-SjUO5_nzeXxxbIlAzxtFERfOLjxauGQyfKuuRCxIQyBrrt1P_SR434AVrqBk0YPevYWVLDPPWQ8xzRq040kK6qel28/w400-h340/TheoDauNTV-2.jpg" width="400" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 2: </em></strong><em>Họp sinh viên liên khoa để cấp tốc hình thành tổ chức Cứu trợ nạn nhân lũ lụt Miền Trung năm 1965 -- một trận lụt lịch sử 100 năm tại các tỉnh Miền Trung; từ phải SVYK Đặng Ngọc Cương, trưởng Đoàn Cấp Cứu Thường trực Y Khoa, SVYK Ngô Thế Vinh, SV Văn Khoa Từ Thức Trần Công Sung</em>. [tư liệu BS Đặng Ngọc Cương]</p>
<p><strong>THẾ HỆ CHIẾN TRANH</strong></p>
<p> Rồi ông cũng học xong, mãn khóa tốt nghiệp YK 68 và trình luận án Tiến sĩ Y khoa Quốc gia vào ngày 28/5/1969 với đề tài <em>An Epidemic of triorthocresyl phosphate Poisoning in Vietnam, 1967 (Intoxication by Aircraft Turbo Engine Lube Oil)</em> / Dịch ngộ độc triorthocresyl phosphate ở Việt Nam, 1967.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEijRBoD5oHZDTdGmv0MKXHkXQrNYBMltmCDAZub5uTwAA9fJ0op1avZBMTNCX3Jb6JXrn8z04HsCII9cbAg6OzOWe9j72xa4jqgHULsdLoqo8mMDEkZz-ueAkoOZcX_kMfWBIp9na1grDj6bhFKgVH7DlTzgs_HQOTVk01__E-ZKuHHNORr4rATUg1M_FM/s713/TheoDauNTV-3.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="450" data-original-width="713" height="253" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEijRBoD5oHZDTdGmv0MKXHkXQrNYBMltmCDAZub5uTwAA9fJ0op1avZBMTNCX3Jb6JXrn8z04HsCII9cbAg6OzOWe9j72xa4jqgHULsdLoqo8mMDEkZz-ueAkoOZcX_kMfWBIp9na1grDj6bhFKgVH7DlTzgs_HQOTVk01__E-ZKuHHNORr4rATUg1M_FM/w400-h253/TheoDauNTV-3.png" width="400" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 3: </em></strong><em>Ngày trình luận án Tiến Sĩ Y Khoa 28.05.1969, với Hội Đồng Giám Khảo gồm Giáo Sư Bùi Quốc Hương, Chủ Tịch Hội Đồng và 3 thành viên Giáo Sư Phan Đình Tuân, Bác Sĩ Đỗ Thị Nhuận, Bác Sĩ Pierre Hautier. Có một chi tiết cảm động, GS Phan Đình Tuân khi giở mấy trang đầu bản luận án của Ngô Thế Vinh, thấy dòng chữ đề tặng “<strong>Để tưởng nhớ tới thân phụ Giáo Sư</strong> <strong>Ngô Văn Bắc</strong>”, GS Phan Đình Tuân cho biết, “<strong>Vậy khi xưa, tôi là học trò của Thầy ở trường</strong> <strong>Khải Định</strong>”. Nhận diện hình, hàng trước từ trái, BS Đỗ Thị Nhuận, GS Phan Đình Tuân, Nguyễn Thụy Hưng, Ngô Thế Vinh, GS Bùi Quốc Hương, Nguyễn Duy Toàn, Nguyễn Ánh Nga; hàng sau: Trương Văn Thành, Nguyễn Tiến Tài, Đặng Đức Nghiêm, Nguyễn Cẩm Thạch, Đinh Gia Cường, BS Pierre Hautier. Phía sau trên cao là di ảnh Hippocrates, để các bác sĩ tân khoa đọc lời thề:“Trước sự hiện diện của các Thầy ở Trường Y Khoa này, của các Bạn đồng môn, và trước di ảnh Hippocrates, tôi xin hứa và thề sẽ trung thành với quy tắc Danh dự và Liêm khiết trong khi hành nghề y sĩ.” [tư liệu NTV]</em></p>
<p>Với Ngô Thế Vinh, “Binh nghiệp không phải là điều tôi lựa chọn nhưng tôi hiểu rất sớm thế nào là đời sống quân đội, nhưng phần quan trọng hơn theo tôi là thứ kỷ luật nơi chính mình...”, [3] ông đã nhập ngũ vào quân đội khóa Trưng Tập 11 Y Nha Dược sĩ mới tốt nghiệp, với cấp bậc Trung úy. Khi kết thúc thời gian huấn luyện quân sự, ông chọn về Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù thuộc binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt với địa bàn hoạt động là vùng cao nguyên chung đụng rất nhiều với các sắc dân thiểu số, cũng do mối duyên sẵn có với những người Thượng ngay từ thời sinh viên. Nhờ đó ông có thêm chất liệu sống để hoàn tất tác phẩm Vòng Đai Xanh trong giai đoạn này. [10] </p>
<p> Là y sĩ trưởng liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, NTV đã có mặt ở những chiến trường xa xôi, heo hút vùng Tam Biên (Việt-Miên-Lào) mà chứng tích còn được ghi dấu nơi những trang viết của ông như Delta 49 - Trại Bunard 1969, Dakto Tây nguyên 1971, Tân Cảnh - Tây nguyên 1971, Bồng Sơn - Thung lũng An Lão 1971, Thị trấn Krek - Cambodia 1971, Kontum 02/1972...</p>
<p><strong>VÒNG ĐAI XANH VÀ MẶT TRẬN Ở SÀI GÒN</strong></p>
<p> Tác phẩm <em>Vòng Đai Xanh</em> được viết xong năm 1969, nhà xuất bản Thái Độ in năm 1970 và đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH 1971, nhưng do bận hành quân trấn giữ Kontum, ông đã không rời đơn vị để về Sài Gòn lãnh giải trước Tết Nhâm Tý (1972).</p>
<p> Sau Tết, khi được chuyển về Sài Gòn để chuẩn bị xuất ngoại tu nghiệp thì ông lại nhận được trát gọi ra hầu tòa về bài “Mặt trận ở Sài Gòn”, một bút ký ngắn ghi lại cuộc hành trình ý thức của một người lính chấp nhận cuộc hy sinh chiến đấu gian khổ hiện tại, đồng thời cũng có những mơ ước về một xã hội tốt đẹp hơn trong tương lai, đăng trên tạp chí Trình Bầy số 34 vì tội “có luận điệu phương hại trật tự công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần chiến đấu của quân đội”. Ngày 18/5/1972, ông Chánh Án Tòa Sơ thẩm Sài Gòn Nguyễn Huân Trình đã xác nhận tội trạng của tác giả bài báo và phạt án treo 100.000 đồng tiền vạ, cùng là bồi thường 1 đồng bạc danh dự cho Bộ Nội vụ. Vì đây là vụ án có tính cách tượng trưng và để tránh một tiền lệ cho nhà văn có thể bị truy tố ra tòa bất cứ lúc nào về những phát biểu trong sáng tác của họ, nên Ngô Thế Vinh quyết định kháng án lên Tòa Thượng thẩm. [10]</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEigO2jeejceEdbxAQyk0esJ6taDmVW-KbKg3I73LUaa2Bsotwmuiz9yEbcvi2x5mcZwDcG2yZG6S6bW-6tKhh-oB4Qpa_Ap9EgCG4YqTci7SDXNn3aKsaISlYccKceodUVGyO9EHIRxdNtlN64Yg5Kh3_TCK_n9CbUglT2QbhT4LCVa3n4ALPTinOeE2Y8/s998/TheoDauNTV-4.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="612" data-original-width="998" height="245" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEigO2jeejceEdbxAQyk0esJ6taDmVW-KbKg3I73LUaa2Bsotwmuiz9yEbcvi2x5mcZwDcG2yZG6S6bW-6tKhh-oB4Qpa_Ap9EgCG4YqTci7SDXNn3aKsaISlYccKceodUVGyO9EHIRxdNtlN64Yg5Kh3_TCK_n9CbUglT2QbhT4LCVa3n4ALPTinOeE2Y8/w400-h245/TheoDauNTV-4.jpg" width="400" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 4: </em></strong><em>Hành quân Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù tháng 5</em><em>/1971, căn cứ xuất phát từ Dakto, với nhiệm vụ thám sát theo dõi sự di chuyển của Bắ</em><em>c quân dọc biên giới xuống tới vùng Tam Biên Việt, Miên, Lào. Trong hình từ trái: Trung úy Nguyễn Sơn, Liên Toán Trưởng các Toán Thám Sát; Trung úy Nguyễn Ích Đoan, Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 Xung Kích, Y sĩ Trung úy Ngô Thế Vinh; Trung úy Nguyễn Hiền, sĩ quan Ban 2. </em>[tư liệu: Nguyễn Hiền]</p>
<p><strong>XIN CHỌN NƠI NÀY LÀM QUÊ HƯƠNG</strong></p>
<p> Tháng 7/1972<a id="_Hlk151846948" name="_Hlk151846948">, </a>NTV được đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ về ngành Y khoa Phục hồi / <em>Rehabilitation Medicine</em> tại quân y viện Letterman General Hospital, Presidio San Francisco. Nhân chuyến đi này, ông có dịp đến thăm nhà văn Linh Bảo qua giới thiệu của chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu như đã được tường thuật trong “Đến với Linh Bảo – Từ Gió Bấc tới Mây Tần” [2]. Và gặp bạn đồng môn, bác sĩ TQLC Nguyễn Trùng Khánh biệt danh Tôn Kàn. Bài viết Tôn Kàn được ông trích dẫn và dùng làm <em>chapeau</em> cho truyện ngắn “Cựu Kim Sơn chưa hề giã biệt” [11]: </p>
<p><em>Thế rồi, cái gì phải đến cũng đến. Ngày trở về Việt Nam đã tới. Mấy tuần trước đó có vài người khuyên tôi nên ở lại. Nếu tôi muốn họ sẽ giúp tôi trốn sang Canada. Tôi lưỡng lự mãi. Một bên là cám dỗ của một đời sống mới, tự do và đầy đủ tiện nghi. Một bên là nỗi nhớ nhung, mái tóc bạc của bà mẹ già, ngọn gió rì rào trong bụi tre ngà, một tô phở nóng, một cái gì rưng rức khó tả. Và nhất là cuộc đối thoại ngắn ngủi giữa bác sĩ Rieux và Rambert trong La Peste của Camus: “Il n’y a pas de honte à préférer le bonheur, mais il peut avoir de la honte à être heureux tout seul.” </em>NTV hẳn đã suy nghĩ rất nhiều cho quyết định rất quan trọng của cuộc đời mình. </p>
<p>Đoạn văn thật đẹp và thật cảm động sau đây cũng chính là tâm sự của tác giả:</p>
<p>“Buổi sáng nắng đẹp, cầu Golden Gate rực rỡ ửng hồng, nơi mỏm sương mù gần bệnh viện Letterman vẫn như còn sương khói ẩn hiện mờ mờ. Đứng trên chiếc du thuyền, phơi mình trong nắng chan hòa nhưng vẫn thấm lạnh vì từng đợt từng đợt những cơn gió từ biển thổi sâu vào trong vịnh. Không suy nghĩ, như một cử chỉ dứt khoát, Phan ném chiếc máy ảnh, cả những cuộn phim rơi sâu xuống lòng vịnh. Hành động trong khoảnh khắc tưởng như chẳng có ai có thể chứng kiến. Một bà Mỹ già, đôi mắt vui và rất sáng đang tiến lại phía chàng. Hình như ông đã để rơi chiếc máy hình xuống biển. Thay cho câu trả lời Phan nói rất bâng quơ. Gió thổi vào vịnh lớn quá, thưa bà.</p>
<p> Vĩnh biệt Cựu Kim Sơn. Thanh thản nhẹ nhàng không lưu luyến buồn vui, để rồi ngày mai chưa biết ra sao nhưng chàng sẽ trở về với bà mẹ già, những người lính đồng đội và cánh đồng lúa thơm chín vàng của Việt Nam. Chẳng phải Cựu Kim Sơn, Phan đã để trái tim mình ở Sài Gòn. <a id="_Hlk151996459" name="_Hlk151996459">Chàng mơ ước cho xứ sở cái sung túc mà người Mỹ đang có nhưng bằng niềm tin tạo dựng với sức lao động vốn siêng năng của người dân mình...</a>” [11] </p>
<p>Về nước vào đầu năm 1973, NTV trở thành Bác sĩ huấn luyện Trường Quân Y VNCH. </p>
<p><strong>NHỮNG BƯỚC CHÂN DIỄN HÀNH THẦM LẶNG</strong></p>
<p> Những ngày cuối tháng 4/1975, “khi mà cứ điểm cuối cùng là Sài Gòn cũng không còn hy vọng đứng vững, thì người ta bắt đầu chạy tứ tán ra các vùng biển, nhào vào các hải cảng và phi trường để tìm phương tiện thoát thân... <a id="_Hlk152208463" name="_Hlk152208463">Phan với vợ và con nhỏ, cùng bốn năm gia đình khác, mỗi người với túi hành lý nhẹ, ngồi kín chiếc xe van chờ bốc họ nơi sân sau của một khách sạn gần trung tâm thành phố. Mỗi người bước lên xe là một trao đổi sòng phẳng. Không biết bằng cách nào, có lẽ qua giúp đỡ của gia đình, vợ Phan đã đưa được tên cả ba người vào danh sách. Người đàn bà quá hiểu chồng, sống bằng trực giác phụ nữ, nàng tìm cách chuyển con sang tay Phan. Như vậy nàng có thể yên tâm cho tới khi vào được bên trong của phi trường. Dù lẫn cả trẻ con nhưng sao không khí thật nặng nề và im lặng. Chiếc xe lầm lũi chạy nhanh trên các đường phố nhao nhác... Chuyền lại đứa con sang tay vợ, như có linh tính con bé nhất định ôm chặt lấy bố, òa khóc khi lọt sang vòng tay mẹ nó. Khi chiếc xe vừa dừng lại nơi trạm kiểm soát, do một quyết định rất nhanh, không biết có tự bao giờ, Phan mở cửa bước xuống, dặn vói vợ. Em và con đi trước, rồi anh sẽ gặp hai mẹ con. Phan tránh không nhìn thẳng vào khuôn mặt vợ, vì biết mình chẳng thể cứng lòng quyết định dứt khoát về một cuộc chia ly như vậy...” </a>[11] </p>
<p> Quyết định ấy có phải đến từ người Mẹ hiền chân chất, đơn giản, rất yêu quê hương nhưng không hiểu rõ chế độ cộng sản, đã khuyên nhủ, “Hết chiến tranh rồi, các con nên ở lại góp tay xây dựng đất nước”? Có thể thoáng hiện trong đầu Phan cuộc phân ly giữa hai miền Nam Bắc năm 1954, ngỡ sẽ gặp lại nhau hai năm sau nhưng rồi cuộc trùng phùng phải đợi đến hơn 20 năm. Lần này biết đến khi nào? Mẹ đã lớn tuổi, có chờ được tới ngày ấy? Ở lại, để được góp tay xây dựng lại quê hương đổ nát sau chiến tranh, biến ước mơ năm nào thành hiện thực “Chàng mơ ước cho xứ sở cái sung túc mà người Mỹ đang có nhưng bằng niềm tin tạo dựng với sức lao động vốn siêng năng của người dân mình...” [11] Ở lại, với câu đối thoại ngắn ngủi giữa bác sĩ Rieux và Rambert trong La Peste của Camus vang vang trong đầu: <em>“Il n’y a pas de honte à préférer le bonheur, mais il peut avoir de la honte à être heureux tout seul.” </em></p>
<p>Ở lại, trong khi bằng mọi giá người khác tìm cách thoát thân vào thời điểm đó, có phải là một quyết định lầm lẫn nhất trong cuộc đời ông? Ở lại, để chứng kiến những giây phút cuối của một Sài Gòn thất thủ sau lời kêu gọi đầu hàng của tướng Big Minh vào gần trưa ngày 30-4-1975. “Hoang mang, ngỡ ngàng, rồi bàng hoàng đau đớn. Lệnh đầu hàng là ‘phát súng thi ân’ cho những đơn vị quyết tâm tử thủ cho tới viên đạn cuối cùng...” [11] Nhưng ông cũng được chứng kiến “những bước chân diễn hành thầm lặng của một tiểu đội lính vô danh ở ngày giờ cuối cùng của một thành phố trước khi mất tên Sài Gòn” để sau này trong những ngày tù đày, ông luôn hồi tưởng đến. “Trên đường Công Lý, từ hướng phi trường Tân Sơn Nhứt, không biết từ bao giờ, chuẩn úy Ngộ và tiểu đội của anh vẫn trật tự lầm lũi theo hàng một tiến về hướng Dinh Độc Lập. Trước đó nhiều ngày đơn vị anh và các tiểu đoàn Nhảy Dù đã bám trụ ngày đêm từ ngã tư Bà Quẹo tới cổng Phi Long, như nút chặn vững chãi cho cửa ngõ đi vào Sài Gòn và cả bảo vệ vòng đai phi trường. Người chuẩn úy da sạm đen, gương mặt xương gầy với đôi mắt rất sáng nhưng buồn. Súng lục trễ bên hông, trên tay một cây gậy nhỏ, dẫn đầu tiểu đội 12 người lính da cũng đen sạm trong những bộ rằn ri lấm bụi bạc sờn. Không chút ảnh hưởng nao núng bởi những khuôn mặt dân chúng hoảng loạn giữa một thành phố xao xác, họ vẫn đều bước theo chân người chuẩn úy, với ba-lô trên vai và mũi súng chúc xuống. Có điều gì đó rất thiết thân và thiêng liêng ràng buộc giúp họ thắng mọi sợ hãi trong nỗi sống chết không rời. Cuộc diễn hành kỳ lạ với không trống chiêng không cờ xí, hoàn toàn vắng mặt hàng tướng lãnh đẹp đẽ trong nhung phục với ngực đầy huy chương trên kỳ đài, mà chỉ có những sĩ quan cấp thấp như chuẩn úy Ngộ và các đồng đội vô danh của anh vẫn can đảm bình thản tới gần tuyến lửa, đi tới trong kỷ luật đội ngũ, diễn qua rải rác những đám đông dân chúng lớn nhỏ tụ tập nhao nhác trên các con phố của một Sài Gòn đang chết dần...” [11]</p>
<p><strong>GULAG ARCHIPELAGO MADE IN VIETNAM</strong></p>
<p> NTV cho biết, “Sau 1975, trừ một số ít đã được di tản trước đó, số bác sĩ còn ở lại trước sau đều bị tập trung vào các trại tù cải tạo. Từng hoàn cảnh cá nhân tuy có khác nhau nhưng tất cả hầu như đồng một cảnh ngộ: bị giam giữ trong đói khát, với lao động khổ sai và học tập tẩy não. Những bao gạo in nhãn ‘Đại Mễ’ đầy mối mọt viện trợ của Trung Quốc được đưa vào nuôi tù cải tạo trong giai đoạn này. Không khác với các trang sách viết của Solzhenitsyn về <em>Gulag Archipelago</em> nhưng là <em>Made in Vietnam</em>, tinh vi hơn với phần học thêm được cái ác từ Trung Quốc.</p>
<p> Cũng thật trớ trêu, trại giam đầu tiên của tôi lại là Suối Máu (Tân Hiệp, Biên Hòa), nơi từng là trung tâm huấn luyện của Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, một đơn vị mà tôi đã từng phục vụ. Như một chính sách rập khuôn, không giam giữ lâu ở một nơi, cứ sau một thời gian, các tù nhân lại bị tách ra, di chuyển đi các trại khác. Từ Suối Máu, tôi lần lượt trải qua các trại Trảng Lớn (Tây Ninh), Đồng Ban (Phước Long) và trại cuối cùng là Bù Gia Mập (Bình Phước). Một số khác thì bị đưa ra Bắc, sau này được biết là điều kiện tù đày khắc nghiệt hơn rất nhiều.”[2]</p>
<p> Đó là những tháng ngày tồi tệ nhất, kinh hoàng nhất và cũng lãng phí nhất trong cuộc đời mà không bao giờ ông và những người tù cải tạo muốn nhớ đến. Nên sau này, khi tới Vân Nam thăm con đập Manwan, “được chỉ đường tới Câu Lạc Bộ Công Nhân, nơi chúng tôi có thể dùng bữa ăn chiều. Khu nhà ăn tập thể sạch sẽ khang trang... Vào giờ ăn, công nhân hay kỹ sư, tất cả đều rất trẻ và ngồi chung bàn... Thêm một người bước vào phòng ăn, tay cầm một chiếc tô bằng sắt tráng men trắng, khuôn mặt trẻ ánh mắt thông minh với cặp kính cận. Như một <em>flashback</em>, chiếc tô bằng sắt tráng men đi lãnh cơm bỗng chốc gợi lại cho tôi cảm xúc của những ngày tù cải tạo ở quê nhà, cũng ba năm chứ ít sao. Tôi bảo Wu nên ra ngoài kiếm một quán ăn nhỏ nào đó dưới phố.” [12]</p>
<p> Khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Lê Quỳnh Mai, ông chia sẻ thêm: “... ngoài những giờ ‘cuốc đất trồng rau’ hay ‘đốn tre trảy gỗ trên ngàn’, cũng phải tìm cách làm cho đầu óc mình bận rộn, tôi học thêm chữ Hán từ người bạn cải tạo nằm kế bên, anh nguyên là giáo sư dạy toán Trường Võ Bị Đà Lạt. Anh ấy rất thông minh, chỉ dẫn có phương pháp cho học những bộ chữ căn bản rồi từ đó phân tích ý nghĩa của những chữ mới. Bằng cách ấy ngữ vựng của tôi rất khá khi ra trại. Bây giờ thì bao nhiêu chữ trả lại thầy, chỉ còn đôi ba từ không bao giờ quên vì mang dấu ấn sâu đậm của một tâm trạng nào đó như chữ ‘Nhẫn’ với hình mũi dao trên trái tim hay câu ‘Khổ hải vượng dương, hồi đầu thị ngạn’... ” [13]</p>
<p><strong>CHÚT RƯỢU HỒNG ĐÂY, XIN RƯỚI XUỐNG<br />
GIẢI OAN CHO CUỘC BIỂN DÂU NÀY </strong><br />
<em>(Tô Thùy Yên – Ta Về)</em> </p>
<p> Ba năm sau ra tù, ông ngậm ngùi nhìn một Sài Gòn đã hoàn toàn đổi khác. Ngôi trường Y khoa cũ ngày nào ở số 28 Trần Quý Cáp êm ả rợp bóng cây xanh nay đã trở thành khu triển lãm “Tội ác Mỹ Ngụy”, không chỉ trưng bày vũ khí súng đạn, chuồng cọp với đủ dụng cụ tra tấn mà còn có cả sách báo nọc độc tàn dư văn hóa của “chủ nghĩa thực dân mới” [sic] trong đó có cuốn Vòng Đai Xanh của chính ông.</p>
<p> Khi đến thăm một bạn cố tri, từng là giáo sư đại học, tốt nghiệp ở Mỹ về Việt Nam từ cuối thập niên 1960, đầy lý tưởng, ôm mộng lớn về một cuộc cách mạng xã hội, thì trong ánh mắt người bạn này “lộ rõ vẻ bất an. Thoáng nét vui mừng nhưng anh kịp kìm hãm, vừa nói vừa canh chừng nhìn ra cửa: ‘Biết toa được ra trại thì mừng nhưng cũng xin toa đừng tới thăm’... Gia đình bên vợ anh ở Mỹ đang làm thủ tục bảo lãnh, nghĩ rằng việc có liên hệ với lính ngụy với tù cải tạo có thể là cản trở cho cuộc hành trình hy vọng của gia đình anh tới bến bờ tự do ấy...” [2]</p>
<p> Nhưng ông cũng “có được niềm vui ấm lòng khi gặp người bạn tấm cám Nghiêu Đề. Nghiêu Đề cho biết mới gặp Sao Trên Rừng đi xe gắn máy từ Đà Lạt xuống, ngạc nhiên thấy Nguyễn Đức Sơn lần đầu tiên ăn vận đồ lớn complet cravate, hỏi tại sao thì Sơn cười giọng khinh mạn: ‘có vậy mới khỏi lẫn với tụi nó’.” [2]</p>
<p> Khoảng thời gian đó, do thiếu rất nhiều bác sĩ, sau khi ra tù, ông trở lại với nghiệp y của mình. Là bác sĩ điều trị và giảng huấn tại Trung Tâm Quốc gia Phục Hồi và Trường Vật Lý Trị Liệu Sài Gòn từ năm 1979 cho đến khi đi định cư Hoa Kỳ vào cuối năm 1983. Ông đã cùng với các bạn đồng nghiệp cũ góp công đào tạo những chuyên viên VLTL để cùng với các bác sĩ hoạt động như “bước thứ ba” của y khoa tiếp theo các bước y khoa phòng ngừa và y khoa điều trị. </p>
<p> NTV cũng có những bữa cơm ấm áp gia đình tại nhà Dương Nghiễm Mậu. “Tuy sống gần khu Chợ Cũ, sẵn những quán ăn vỉa hè và nhà hàng, rất tiện cho nếp sống cơm hàng cháo chợ, nhưng thường sau một ngày làm việc, thay vì về nhà tôi ghé nhà Nghiễm, được chị Trang vợ Nghiễm cho thêm chén thêm đũa với những bữa ăn đạm bạc nhưng ngon miệng vì là bữa cơm hạnh phúc gia đình. Trong tù, tôi và Nghiễm thì đã quen với những bữa ăn đói ngày đêm, ra ngoài tuy rau đậu nhưng cũng là bữa tạm no. Người lớn thì không sao, nhưng với trẻ nhỏ đang tuổi ‘mau ăn, chóng lớn’ thì khẩu phần ấy phải xem là suy dinh dưỡng. Nếu không là ngày phải ra trễ, tôi ghé qua chợ mua một món ăn gì đó, đem tới bày thêm vào mâm cơm gia đình. Có thêm món thịt, thêm chút chất đạm thì hôm đó với hai đứa nhỏ như là bữa tiệc. Những lần gặp nhau, tôi và Nghiễm đều ít nói. Hình như Nghiễm có viết ở đâu đó là những điều không cần nói ra nhưng cũng đã hiểu nhau rồi. Chỉ có cô giáo Trang vợ Nghiễm sau một ngày dạy học mệt nhọc nhưng lúc nào cũng có đôi chuyện vui từ trường đem về gia đình.” [2]</p>
<p> Thời kỳ này ông cũng hoàn tất hai cuốn sách Y học: “Khái Luận Y Học Phục Hồi” (Nxb Y Học 1983) và “Từ điển Y Học Phục Hồi Anh–Pháp–Việt” (Nxb Y Học 1984). </p>
<p><strong>TRỞ LẠI VỚI DÒNG CHÍNH</strong></p>
<p> Ngô Thế Vinh chia sẻ, “Khoảng từ 1987, qua giới thiệu của bạn đồng môn Phạm Quang Thùy, GS Hoàng Tiến Bảo và tôi cùng được nhận vào làm Clinical fellow / volunteer không lương nơi Department of Medicine & Hypertension, USC Medical School với hai giáo sư Vincent DeQuattro và Robert Barndt. Nơi đây, không phải chỉ có Việt Nam, mà còn có các bác sĩ thuộc nhiều quốc tịch khác như Nam Hàn, Hồng Kông, Phi Luật Tân, Syria và cả Nhật Bản... Hệ thống y khoa Mỹ lạnh lùng và tàn nhẫn với bất cứ một bác sĩ ngoại quốc nào tới Mỹ theo diện di dân muốn hành nghề trở lại, cách đối xử khác xa với thành phần du học nếu sau đó trở về nước. Tại USC Medical Center, đám bác sĩ ngoại quốc chúng tôi tuy chưa có bằng hành nghề, nhưng cũng được tiếp xúc với bệnh nhân, để chọn lọc và ghi tên họ tham gia vào các công trình nghiên cứu y khoa, theo protocol, thực hiện các cuộc phỏng vấn, lập hồ sơ với folder cho từng người; ngoài ra hai ngày mỗi tuần chúng tôi được tham dự các buổi khám bệnh của hai vị giáo sư Mỹ này. Mỗi ngày, sau khi làm xong phần vụ được giao phó, hai Thầy trò lại cùng nhau xuống Norris Medical Library nơi có cả một rừng sách, phía sau Bệnh viện để dùi mài kinh sử; chủ yếu là nghe tape và xem video các bài giảng y khoa, giống như mấy trung tâm luyện thi Kaplan nhưng phải trả tiền khá đắt.</p>
<p> Và rồi tôi đã qua phần thi cử FMGEMS, có được mấy cuộc phỏng vấn / interviews để vào NRMP (National Resident Matching Program). Sau đó tôi rời California đi New York với hy vọng hoàn tất chương trình nội trú & thường trú nơi hệ thống các Bệnh viện Đại học SUNY Downstate ở Brooklyn, New York.” [2] Sau một năm Nội trú / <em>Internship</em> và hoàn tất chương trình Thường trú ba năm về Nội Khoa / <em>Internal Medicine Residency</em>, NTV trở về California, làm bác sĩ điều trị và giảng huấn tại một bệnh viện VA thuộc hệ thống Đại học Y Khoa UCI từ 1991. </p>
<p><strong>MEKONG – DÒNG SÔNG NGHẼN MẠCH</strong></p>
<p> Từ năm 1995, như một bước ngoặt của cuộc đời, NTV đã đến với sông Mekong cũng như vấn đề môi sinh. Ông kể lại:</p>
<p>“Năm 1995 tôi đã có kỷ niệm về một ngày rất khó quên với nhà báo Như Phong nơi thủ đô tỵ nạn Little Saigon. Ðó vào sáng thứ Bảy của một ngày tiết Thu nắng đẹp miền Nam California, Anh Như Phong hôm ấy rủ tôi tới gặp mấy người bạn trẻ thuộc Nhóm Bạn Cửu Long mà tôi chưa hề quen biết nhân có buổi mạn đàm đầu tiên tại Phòng Sinh Hoạt báo Người Việt. Trên bàn thuyết trình hôm đó có kỹ sư Phạm Phan Long, tiến sĩ Phạm Văn Hải và nhà báo Ðỗ Quý Toàn. Kỹ sư Phạm Phan Long là người đầu tiên lên tiếng báo động về những hiểm họa cho dòng sông Mekong khi Trung Quốc có kế hoạch xây một chuỗi những con đập Bậc thềm Vân Nam. Lúc đó chỉ mới có một con đập đầu tiên Manwan / Mạn Loan 1.500 MW trên dòng chính sông Lancang–Mekong vừa được xây xong (1993). Ngày hôm ấy với tôi quả thật là mối ‘duyên khởi’ bởi vì đây cũng là lần đầu tiên tôi tiếp cận với một vấn nạn mới mẻ của đất nước: đó là những bước phát triển ‘không bền vững / unsustainable development’ của con sông Mekong. Cũng từ đó tôi được làm quen với những người bạn mới như KS Phạm Phan Long, KS Ngô Minh Triết, KS Nguyễn Hữu Chung và rồi thêm những người bạn khác của Mekong Forum, tiền thân của Viet Ecology Foundation về sau này. </p>
<p> Rồi phải kể tới một bài báo đăng trên Tuổi Trẻ Chủ Nhật (03-11-1996): Khai thác sông Mekong: nhìn từ góc độ Việt Nam tuy đứng tên Kỹ sư Phạm Phan Long nhưng do 4 người viết, họ đều là những chuyên gia từ hải ngoại: Tiến sĩ Phạm Văn Hải (Mỹ), Kỹ sư Nguyễn Hữu Chung (Canada), Tiến sĩ Bình An Sơn (Úc). Nội dung bài viết ấy cho tới nay vẫn còn nguyên tính thời sự... Cũng đã hơn 25 trôi năm qua, tôi vẫn là người bạn đồng hành bền bỉ với Nhóm Bạn Cửu Long, vẫn cứ là một con chim ‘báo bão’ từ những đám mây đen độc hại ngày càng dày đặc hơn không ngừng đổ xuống từ phương bắc.” [2]</p>
<p> Từ bước ngoặt cuộc đời này, NTV đã viết nên hai tác phẩm được đánh giá cao, được xuất bản và tái bản nhiều lần:</p>
<ul>
<li><em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng</em> [Văn Nghệ, California 2000, tái bản 2001; Nxb Giấy Vụn Việt Nam 2014] </li><br />
<li><em>Mekong – Dòng Sông Nghẽn Mạch</em> [Văn Nghệ, California 3/2007; Văn Nghệ Mới 12/2007; Nxb Giấy Vụn, Việt Nam 2012]</li>
</ul>
<p><strong>TÁC PHẨM VĂN HỌC</strong></p>
<p> NTV sớm đến với văn chương, đã có tác phẩm xuất bản từ 60 năm trước và hiện nay ông vẫn còn tiếp tục viết. Có thể kể:</p>
<ul>
<li> <em>Mây Bão</em> [Sông Mã, Sài Gòn 1963; Văn Nghệ, California 1993] </li><br />
<li> <em>Bóng Đêm</em> [Khai Trí, Sài Gòn 1964]</li><br />
<li> <em>Gió Mùa</em> [Sông Mã, Sài Gòn 1965]</li><br />
<li> <em>Vòng Đai Xanh</em> * [Thái Độ, Sài Gòn 1970; Văn Nghệ, California 1987; Văn Học Press, California 2018]</li><br />
<li> <em>Mặt Trận Ở Sài Gòn</em> * [Văn Nghệ, California 1996]</li><br />
<li> <em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng</em> * [Văn Nghệ, California 2000, tái bản 2001; Nxb Giấy Vụn Việt Nam 2014]</li><br />
<li> <em>Mekong – Dòng Sông Nghẽn Mạch</em> * [Văn Nghệ, California 3/2007; Văn Nghệ Mới 12/2007; Nxb Giấy Vụn, Việt Nam 2012] </li><br />
<li> <em>Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa I</em> [Việt Ecology Press 2017]</li><br />
<li> <em>Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa II</em> [Việt Ecology Press 2022]</li><br />
<li> <em>Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn, Người Đi Tìm Mùa Xuân</em> [Tập San Y Sĩ Việt Nam Canada, Việt Ecology Press 2019]
</li></ul>
<p> trong đó những tác phẩm có dấu * đã được dịch sang Anh Ngữ và xuất bản tại Hoa Kỳ. Riêng bộ sách Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa I & II đang được Tiến sĩ Eric Henry dịch, dự trù sẽ ra mắt cuốn I trong năm 2024.</p>
<p> Với bộ ba cuốn sách song ngữ Việt-Anh: <em>Mặt Trận Ở Sài Gòn</em> (2020), <em>Vòng Đai Xanh</em> (2020) và <em>Mekong – Dòng sông nghẽn mạch</em> (2021) do nhà xuất bản Văn Học Press & Việt Ecology Press ấn hành, Ngô Thế Vinh luôn quan tâm đến những thế hệ tương lai.</p>
<p>Người viết rất tâm đắc với nhận định của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng:</p>
<p>“Ngô Thế Vinh là nhà văn của những ước mơ, hay nói rõ hơn ông là nhà văn của lương tâm.</p>
<p> Người ta hiểu lý do vì sao Ngô Thế Vinh phải ra hầu tòa trong khi trước đó, tác phẩm Vòng Đai Xanh của ông vừa được giải Văn học Nghệ thuật toàn quốc 1971. Bởi vì ngoài vai trò một bác sĩ và một người lính, ông còn là một nhà văn ước mơ về một xã hội tốt đẹp hơn. Ông là một người lính chiến đấu cho tổ quốc, hy sinh cho một lý tưởng, nhưng ông không muốn sự hy sinh ấy nhằm bảo vệ cho ‘một thứ xã hội trên cao’, một xã hội hưởng thụ thừa mứa, của ‘một đám người kêu gọi chiến tranh nhưng lúc nào cũng ở trên và đứng ngoài cuộc chiến ấy.’</p>
<p> Hơn ai hết, Ngô Thế Vinh biết rõ những suy nghĩ của anh trong một xã hội đang tan rã ở Sài Gòn lúc bấy giờ cũng chẳng khác nào những suy nghĩ của bọt biển, thế nhưng khi cầm bút viết xuống trang giấy những suy nghĩ ‘phạm thánh’ ấy trong một không khí đe dọa và khủng bố, phải nói Ngô Thế Vinh là một người dũng cảm.” [14]</p>
<p> Dược sĩ Bùi Khiết, một người bạn của NTV, chia sẻ: “Với ông người Việt Nam giết chóc tàn hại nhau chỉ là hiện tượng ở vào một thời điểm trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Con người Việt Nam thương yêu nhau, đùm bọc nhau mới là bản chất Việt Nam. Làm văn hóa hướng về chân thiện mỹ thì phải phát huy bản chất ấy.</p>
<p> ... Ngô Thế Vinh rất đôn hậu về cái gốc. Ông không hận thù nhưng buồn và thương tiếc. Cảm nghĩ của tôi, Ngô Thế Vinh chấp nhận và cam chịu giữa hai lằn đạn. Cả hai phía bên này lẫn bên kia có vẻ khó chịu và nghi ngại ông. Bởi ông là nhà văn lấy chính trị làm bối cảnh mà lại viết và trình bày theo lương tâm. Chính cái lương tâm trong sáng từ bi và bác ái đó làm bóng đêm thủ đoạn chính trị bị lộ diện. Như con thú đêm khi lộ diện thì cuồng quẫy chống đối khó chịu.” [14]</p>
<p>Người viết muốn thêm, Ngô Thế Vinh còn là một con chim báo bão, “Nghệ sĩ không thể chỉ là nhân chứng mà hắn phải có tâm thức của một tiên tri” như ông đã bày tỏ trong truyện ngắn <em>Đêm Mắt Lưới </em>đi trên Tình Thương số 24 (tháng 12/1965). <em>Vòng Đai Xanh</em> được viết xong vào năm 1969 vẫn còn nguyên tính thời sự cho tới hôm nay, điển hình là vụ nổ súng tại Đắk Lắk ngày 11/6/2023 vừa qua. <em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng </em>đã báo động từ hơn hai mươi năm trước tình trạng khô hạn, cạn dòng, ngập mặn... sẽ xảy ra khi các quốc gia ở thượng nguồn liên tục xây dựng các đập thủy điện bất chấp hệ sinh thái của thiên nhiên và đời sống của cư dân ven sông mà hiện nay tất cả chúng ta đã thấy rất rõ ràng hậu quả.</p>
<p>Giọng văn điềm tĩnh, lời đẹp, ý nhân hậu là điều độc giả nhận ra khi đọc văn Ngô Thế Vinh.</p>
<p>“Không chỉ đau vì mất chân, Tụng biết mình vẫn còn sống nhưng đau xót hơn chỉ sợ làm mẹ buồn. Tụng xé ngay mảnh áo làm vòng garrot tự cấp cứu cầm máu. Tụng nổi tiếng lì khi còn trong chiến trận, trong đời Tụng chưa từng biết khóc là gì nhưng bây giờ thì đôi mắt mờ lệ nhìn về phía nắng hanh chiếu vàng trên những bụi tre phía xa, thấp thoáng đâu đó là nóc nhà quen thuộc, nơi đó có bà mẹ già và cả con Bé Tư đang lúp xúp lặt mớ rau cho nồi canh chuẩn bị bữa ăn chiều. Tụng không nghĩ tới mình, không màng tới cái đau như xé truyền lên từ mỏm chân cụt mà lại cứ miên man với ý nghĩ là sắp tới đây, phải ăn làm sao nói làm sao với má bây giờ, để cho bả khỏi khổ. Hòa bình rồi hạnh phúc tính là dài lâu nhưng rồi ra cũng chỉ là tính riêng cho mỗi từng ngày<em>.” (Ngô Thế Vinh – Người Y Tá Cũ)</em></p>
<p>“Trong cái mênh mang của cơn say lịch sử, có ai nghĩ được rằng cuộc chiến đang diễn ra giữa những người Việt lại có thể xóa nhòa một nền văn minh Angkor cổ kính. Và trong cái hoang vu lặng lẽ của buổi chiều tàn, giữa ngôi làng đổ nát kia, tôi tưởng tượng rằng vẫn còn một người đàn bà không rõ mặt mũi vẫn ẩn nhẫn ngồi ôm đứa con ru cho bú. Phải chăng vẫn còn hình ảnh an ủi tuyệt đẹp và ngàn năm của ý nghĩa tồn sinh nhân loại. Đó là sự sống thách thức và cũng là tha thứ bao dung đối với cả cuộc chiến tranh dài đẵng và vô ích này, với những tàn phá vô tri của bọn đàn ông và khí giới bom đạn.” <em>(Ngô Thế Vinh – Nước Mắt Của Đức Phật)</em></p>
<p>Là bác sĩ, nên cách nhìn của ông cũng rất “thầy thuốc”:</p>
<p>“Theo cách nhìn y khoa, với người viết, thì chỉ với hai đoạn đường ngắn: con Đường Sách 144 m và tuyến Đường Metro Bến Thành Suối Tiên 19,7 km có thể xem đó là hai chỉ dấu sức khỏe – vital signs của Sài Gòn. Chừng nào có sinh hoạt ‘được gọi là bình thường’ nơi hai tụ điểm ấy: một nét văn hóa và một nét công nghệ cao – là biểu trưng cho một thời kỳ Sài Gòn khỏe mạnh, một Sài Gòn phục sinh, vui tươi trở lại với rộn rã ca khúc của Y Vân ngày nào: Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi!” <em>(Ngô Thế Vinh – Con Đường Sách Sài Gòn và Câu chuyện đốt sách)</em></p>
<p>Hay:</p>
<p>“Trong 48 năm qua, nhiều công trình cải tạo lớn đã được đem ra thử nghiệm trên khắp ĐBSCL như: đắp đê ngăn lũ, làm đê kè để giảm sóng hay chuyển hướng dòng chảy, xây dựng hàng loạt những cống chặn mặn… Có thể nói là các ‘chuyên gia quốc doanh’ từ ngoài Bắc vào Nam không hiểu gì hệ sinh thái tinh vi của ĐBSCL, nên đã thô bạo dùng ‘dao mổ trâu’ để thực hiện những cuộc giải phẫu thần kinh và đã để lại những hậu quả tác hại lâu dài, rất khó sửa chữa.” <em>(Ngô Thế Vinh</em> – <em>Nửa Thế Kỷ Cải Tạo Làm Cạn Kiệt Tài Nguyên Một ĐBSCL Đang Chết Dần)</em></p>
<p><strong>NGÔ THẾ VINH ĐỜI THƯỜNG</strong></p>
<p> Phạm Ngọc Lân, dược sĩ tốt nghiệp năm 1968, cùng khóa 11 Trưng Tập với Ngô Thế Vinh đã kể lại trong hồi ức “Cha Vô Danh”: </p>
<p>“Ngày thứ hai mùng 2 tháng 6 năm 1969, khóa 11 Trưng Tập được đưa lên học quân sự tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Anh Vinh là đại đội trưởng khóa sinh, phải vô cùng vất vả vì những cuộc đối đầu với thành phần lãnh đạo của trại. Bất mãn đầu tiên đến với cả đại đội khi một công lệnh được phổ biến sáng thứ tư 11 tháng 6, là chủ nhật tới sẽ chỉ được nghỉ phép 10 tiếng đồng hồ thay vì 24 tiếng từ chiều thứ bảy đến chiều chủ nhật. Thứ hai là có một người trung sĩ đưa lệnh kêu mấy chục người phải đi khuân đồ đạc dọn trại cho ai đó. Trước đó, ngày thứ ba và thứ tư các khóa sinh ở lại trực phòng đều bị khiển trách nặng nề vì phòng ngủ không được sạch sẽ, tuy các bạn này cũng đã cố gắng làm hết sức mình. Rồi còn bị dẫn qua các phòng của các đại đội khác để cho thấy người ta giữ sạch sẽ ra làm sao. Thế là đến 11 giờ trưa trong giờ nghỉ học, cả đại đội tập họp để ủng hộ anh Vinh đại đội trưởng đến trình bày vấn đề với Thiếu Tá tiểu đoàn trưởng. Sau đó cả đại đội biểu quyết sẽ phản đối bằng cách không về phép chủ nhật nếu chỉ được phép 10 tiếng đồng hồ, không tuân lệnh đi khiêng đồ đạc vì đó không phải là cách cư xử với những sĩ quan khóa sinh, và không hợp tác trong một chương trình văn nghệ của tiểu đoàn. Đến trưa lại có công lệnh đọc trước đại đội, cảnh cáo đại đội 45 vì đêm thứ ba không ra ngủ ngoài trời. Lời cảnh cáo rất gay gắt, kèm thêm lời đe dọa là nếu tái phạm thì cả đại đội sẽ bị phạt cúp phép, các cấp trưởng (trung đội trưởng, đại đội trưởng) sẽ bị nghiêm phạt. Điều bực bội nhất cho các khóa sinh là công lệnh được đọc cho tất cả 6 đại đội của tiểu đoàn Nguyễn Huệ nghe, sẽ đọc trong hai ngày liền, mỗi ngày hai lần! Sở dĩ đêm thứ ba không ra ngủ bên ngoài vì trời mưa, lại không có dụng cụ để dựng lều nên phải ngủ trong nhà, nhưng trong tư thế sẵn sàng, quần áo trận vẫn mặc, không giăng mùng mà chỉ trùm đầu bằng cái lưới muỗi thôi. Không khí căng thẳng tiếp tục lên cao và qua ngày hôm sau thứ năm 12 tháng 6, đại đội quyết định phản ứng mạnh hơn. Buổi trưa tất cả tập họp ngoài sân, lấy lon trung úy ra đeo lại trên cổ áo, hàng ngũ nghiêm chỉnh trong khi anh Ngô Thế Vinh đại đội trưởng vào ‘làm việc’ với Thiếu tá tiểu đoàn trưởng. Chiều cùng ngày, Vinh lên gặp Thiếu Tá liên đoàn phó, ông này hứa sẽ đưa việc này lên cấp trên giải quyết. Đến tối, có lệnh từ liên đoàn xuống tách riêng đại đội F-45 ra một trại riêng biệt, chỉ cách trại cũ hơn 200 thước, và từ nay đại đội này sẽ tự quản lý lấy doanh trại của mình, còn việc học tập quân sự vẫn tiếp tục trong khuôn khổ tiểu đoàn Nguyễn Huệ như cũ. Thế là lúc 9 giờ tối, mọi người lục đục dọn nhà, khiêng các giường sắt qua hai căn nhà rộng của doanh trại mới, kê làm hai hàng giường hai tầng chồng lên nhau, trung đội 1 và 4 ngủ trong một căn, hai trung đội 2 và 3 trong căn còn lại.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhH6ergilI-SNE8jNHmDWwzmNiq0QH4K91m1hgjY-q4nL4AYPlwYJLl9xBF4aZfhVZgxyUTF5E8UBjaNiNMlYqM8pxq6VFyhSQTZ8xeN6B7pc2WJXskHodP3C2iPXN9K_jzRCx8h-Anx_Js16um55XMSI2TAH7Tgo2AjopJ5-dJan2Si58gXnpGHeduY2Q/s807/TheoDauNTV-5.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="576" data-original-width="807" height="285" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhH6ergilI-SNE8jNHmDWwzmNiq0QH4K91m1hgjY-q4nL4AYPlwYJLl9xBF4aZfhVZgxyUTF5E8UBjaNiNMlYqM8pxq6VFyhSQTZ8xeN6B7pc2WJXskHodP3C2iPXN9K_jzRCx8h-Anx_Js16um55XMSI2TAH7Tgo2AjopJ5-dJan2Si58gXnpGHeduY2Q/w400-h285/TheoDauNTV-5.jpg" width="400" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 5: </em></strong><em>Khóa sinh sĩ quan Ngô Thế Vinh 1969 và những ngày ở </em><em>Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung</em><em>; tuy chưa ra chiến trận nhưng Khóa Trưng Tập 11 Y Nha Dược đã bị tổn thất và cả tang tóc, do vụ nổ của một trái mìn Claymore hướng thẳng vào doanh trại các khóa sinh sĩ quan Quân Y, khiến một bác sĩ tử vong ngay tại chỗ và nhiều bạn khác bị thương, và những miểng mìn còn gắn trên cơ thể họ cho tới ngày nay. </em>[tư liệu NTV]</p><p><strong></strong></p>
<p>Vài ngày sau, đại đội có lệnh triệu tập đặc biệt lên hội trường, ra mắt Trung Tá liên đoàn trưởng. Sau các thủ tục chào đón nghiêm nghỉ của nhà binh, mọi người ngồi xuống và ông Trung Tá, một người mặt mũi sáng sủa ngồi trên bàn chủ tọa, rút trong túi ra một cái thẻ vàng (chẳng khác gì trọng tài trong trận đá banh quốc tế) và hỏi to, ‘Các anh nói tấm thẻ này màu gì?’ Mọi người trả lời đồng loạt ‘màu vàng’. Ông Trung Tá nói ‘nhưng trong quân ngũ, tôi nói tấm thẻ này màu đỏ, các anh cũng phải nói nó là màu đỏ; quân đội khác với xã hội bên ngoài ở chỗ đó.’ Anh Ngô Thế Vinh giơ tay xin phát biểu: ‘Chúng tôi là những người được đào tạo trong môi trường đại học, và chúng tôi được học hỏi một điều quan trọng. Đó là muốn trở thành người trí thức thì đầu tiên phải biết tôn trọng sự thật trong mọi tình huống, vì thế nên chúng tôi không thể nói tấm thẻ kia màu đỏ trong khi thật ra nó là màu vàng!’ Mọi người ngồi im phăng phắc xem ông Trung Tá phản ứng ra sao, nhưng ông này chỉ nói cho qua chuyện, rồi sang một đề tài khác: ‘Khóa 11 Trưng Tập đến Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung để học 9 tuần quân sự căn bản, nên cũng phải theo kỷ luật chung của Trung Tâm, nhưng vì các anh đã là những sĩ quan đeo lon trung úy, nên liên đoàn đã quyết định để đại đội F-45 được tách ra sống riêng trong một doanh trại mà các anh phải tự quản.’</p>
<p> Từ đó về sau, đại đội sống biệt lập với 5 đại đội còn lại của tiểu đoàn Nguyễn Huệ, không còn va chạm với Thiếu Tá tiểu đoàn trưởng nữa, mà ngược lại, dần dần ông Thiếu Tá nổi tiếng kỷ luật và có thành kiến không tốt với giới quân y (vì một lý do bí ẩn nào đó trong quá khứ của ông ta) trở thành người có cảm tình với khóa 11 Trưng Tập...” [15]</p>
<p>Mẩu chuyện trên cho thấy, Ngô Thế Vinh là người lãnh đạo tài năng, tôn trọng sự thật, ứng xử có tình có lý, không cứng nhắc tuân theo những lệnh vô lý của thượng cấp, đấu tranh và đứng về phía kẻ yếu thế, như ông đã từng viết trong tiểu thuyết “Mây Bão” cuối năm 1962: “... <em>ở đâu mà chẳng phải đấu tranh nếu không muốn bị dồn ép tàn lụi hoặc chết dí như những con rệp</em>”. Nhưng cũng nên thêm điều đó chỉ có thể xảy ra thời VNCH tự do, không thể có dưới thời cộng sản chuyên chính.</p>
<p> Bù lại, ông cũng rất nghiêm, không khoan nhượng đối với bất cứ vi phạm kỷ luật nào trong quân đội. Bằng chứng cũng từ những trang viết của Dược sĩ Phạm Ngọc Lân: Một bữa người vợ ra đến bãi tập thăm anh bằng xe Jeep do quen với một sĩ quan làm việc trong quân trường. “Chỉ gặp mặt nhau không được bao lâu nên chàng còn bịn rịn khi có tiếng còi ra lệnh tập họp để đi tập ở bãi khác. Trở lại với đại đội bị trễ vài phút, anh đại đội trưởng khóa sinh Ngô Thế Vinh phạt anh chàng khóa sinh F-205 20 cái hít đất!” [15]</p>
<p>Họa sĩ Đinh Cường chia sẻ:</p>
<p> Những ngày này Ngô Thế Vinh hay phone nói chuyện này chuyện kia cho vui. Làm tôi lại nhớ những ngày xưa cũ, có lần ghé qua căn phòng bạn ở vùng Chợ Cũ, gần đường Ký Con nơi làm tòa soạn tạp chí Sáng Tạo. Bạn đi vắng, tôi và Nghiêu Đề nhìn qua cửa sổ thấy cái giường trải chiếc drap trắng thẳng tưng như giường trong nhà binh. Bạn có nếp sống ngăn nắp, tươm tất. <em>(Đinh Cường –</em><em>Đoạn ghi cho Ngô Thế Vinh – 17/3/2015)</em></p>
<p>Nhà thơ Lê Chiều Giang, vợ họa sĩ Nghiêu Đề, người bạn tấm cám của NTV, cho biết:</p>
<p> Thuở Nghiêu Đề lúc cạn tiền, túi hết, anh hay lang thang ra ngồi Café góc phố. Nhưng nếu bán được tranh, coi như tiền có từ trên trời rơi xuống, anh thích ngồi La Pagode. Anh gọi hết bè bạn ra café thuốc lá, kên đời và để huyên thuyên cười nói… Riêng anh
Ngô Thế Vinh đã chẳng bao giờ sống bạt mạng như thế. Anh thích ngồi trang trọng chỉ
riêng với vài bạn thân ở quán Thanh Bạch. Anh quen biết rất đông giới văn nghệ, nhưng lại ít tham dự cách vui chơi huyên náo của những văn nhân, thi sĩ. Anh rất hòa nhã nhưng dè dặt, lặng lẽ và kín đáo. Sẽ chẳng bạn bè nào hiểu Ngô Thế Vinh đang nghĩ gì. <br />
<em>(Lê Chiều Giang – Quỳnh Liêu)</em></p>
<p>Ngô Thế Vinh là bác sĩ, ông luôn ân cần thăm hỏi, quan tâm đến sức khỏe của bạn bè. Như với Cao Xuân Huy: “Huy và tôi, qua cell vẫn liên lạc với nhau hàng tuần, thường là thứ Năm sau ngày tái khám ở UCLA về. Thường là tôi phone cho Huy...” [2] Tháng 7/2022, người viết đi nghỉ hè ở miền Nam California, chẳng may bị bệnh nên báo cho ông. Ông có lời khuyên và nhờ Bác sĩ Nghiêm Đạo Đại, bạn ông, khám giúp, cho toa. Nơi đây, xin được một lần nữa cảm ơn hai Bác sĩ NĐĐ và NTV đã tận tình giúp đỡ người viết khi xa nhà.</p>
<p><strong>ĐẰNG SAU ÁNH HÀO QUANG</strong></p>
<p> Ai đó đã nói, “Đằng sau mỗi người đàn ông thành đạt đều có một người phụ nữ tuyệt vời”. Với người viết, có đến hai người phụ nữ phía sau Ngô Thế Vinh. Đó là Mẹ và Vợ ông.<br />
Mẹ đã đưa ông vào đời, chăm sóc, vun bón tình yêu quê hương xứ sở cho con qua những câu hát ru từ thuở nằm nôi, dạy dỗ nuôi con nên người. Dưới đây là đoạn văn ông viết về người Mẹ:</p>
<p>“... Khi tôi bước vào nhà thì bà vẫn mải mê đọc cuốn <em>Tâm và Thức của đạo Phật</em>. Tôi yên lặng ngồi xuống một chiếc ghế gần đó: một phút ngạc nhiên đến xót xa khi thấy mái tóc bà đã trắng bạc như sương. Tôi đã xa đời sống, xa bà bao lâu để mới nhận ra sự biến đổi này và bà đã ngồi đó tự bao giờ, trong bao nhiêu năm nay, vẫn trong chiếc ghế bọc da màu nâu quen thuộc với những đồ vật trong phòng giữ nguyên chỗ đứng cũ. Hình ảnh bà gợi sự bình an trộn lẫn với xót xa. Cảm giác không tránh khỏi rưng rưng khi nhìn bàn tay bà với những ngón gầy khô se sắt. Tôi muốn được ôm hôn lên trán, gục mặt vào lòng bà và nắm lấy bàn tay gợi biết bao nhiêu nỗi êm dịu thời tuổi nhỏ nhưng cái không khí tẩm thẫm đạo giáo và sự thanh khiết khổ hạnh đã ngăn tôi lại, đó như một khoảng cách làm khô héo tình mẫu tử vuốt ve và tiếng nói của yêu thương chỉ còn là sự xót xa yên lặng. Bà vẫn còn sống nhưng lại xa hẳn với thế giới hệ lụy này...” [16]</p>
<p> Ngày ấy, Mẹ khuyên: “Hết chiến tranh, các con nên ở lại góp tay xây dựng đất nước”, để rồi không lâu sau đó bà chết trong cô quạnh lúc cả ba con trai đang bị tù “cải tạo”. Đọc Lê Chiều Giang viết về bà, xúc động khôn nguôi: </p>
<p>“Khi biết anh Ngô Thế Vinh đang bị tù giam tại Suối Máu, chúng tôi tới thăm Bà. Mẹ anh Vinh nắm tay anh Nghiêu Đề như tìm lại hơi ấm từ đôi bàn tay người con đang bị giam cầm nơi xa xôi. Bà nhìn Cu Bi con trai của chúng tôi đi lẫm đẫm quanh nhà rồi nhắc nhớ đến Quỳnh Liêu, cô cháu nội mà Bà biết sẽ chẳng còn có bao giờ được gặp lại.”<br />
<em>(Lê Chiều Giang – Quỳnh Liêu)</em></p>
<p>Vợ ông trong mọi nghịch cảnh, đã là hậu phương vững chãi cho ông trong suốt những năm thăng trầm. Sau này khi ông theo đuổi vấn đề môi sinh, với những chuyến du khảo đến những con đập thượng nguồn, qua các quốc gia Trung Hoa lục địa, Lào, Cam Bốt, Việt Nam đầy bất trắc, có người vợ nào không lo lắng? Nhưng bà vẫn để ông thực hiện những gì ông hằng theo đuổi. Trong một lần trả lời phỏng vấn, ông đã chia sẻ: “Hạnh phúc, như một cách nói đối với tôi là những giờ buổi tối, trong không khí gia đình, nếu không đọc sách, thì cũng được ngồi trước chiếc computer viết hay sửa lại những trang sách viết dở dang.” [3]</p>
<p><strong>CON NGƯỜI XANH CỦA MÔI SINH</strong></p>
<p> Trong bài “Phỏng vấn Ngô Thế Vinh – người đi dọc 4.800km sông Mekong” do phóng viên báo Người Đô Thị Lê Quỳnh thực hiện, khi được hỏi, “nếu được tự nói về mình, ông nhận mình là một bác sĩ, nhà văn, nhà báo, hay là một nhà khoa học?”, NTV đã trả lời:</p>
<p> – Tôi đã được gán cho nhiều căn cước khác nhau, nhưng một cách khái quát, nói như ký giả Long Ân, có lẽ đúng nhất tôi chỉ là <em>con người xanh của môi sinh</em>. [17]</p>
<p> Cho đến nay, NTV vẫn tiếp tục theo dõi tình hình sông Mekong, từ đó viết những bài báo gióng tiếng chuông cũng như đưa ra những biện pháp cần thiết và thích hợp với môi sinh hầu giải quyết vấn đề “thay cho 20 triệu cư dân ĐBSCL không được quyền có tiếng nói”. Theo ông, “Cứu lấy dòng sông Cửu Long” là một cuộc chạy đua với kim đồng hồ, bởi vì “Nói tới nguy cơ là còn thời gian, chứ tiêu vong là mất đi vĩnh viễn / <em>Extinction is forever, Endangered means we still have time</em>” (Sea World San Diego). Ông luôn nhấn mạnh: “Kế hoạch phát triển nào cũng phải tính tới cái giá môi sinh phải trả – environmental costs – đối với sức khỏe của người dân và cả trên nguồn tài nguyên lâu dài của đất nước”, và “Môi Sinh và Dân Chủ sẽ mãi mãi là một ‘Bộ Đôi Không Thể Tách Rời / Inseparable Duo’.” </p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgeLiqtvVygh8JXWUig3JFX-FOp6vQr5Xovo6dH459Rbsha-Jox4SxS3T1scMBg6mdnXoKWiB_zu9Tg7Z2iy7HHhtCPTDUEiTH-dMn9FTVrJ8qXOKK0qqomafTeecOi34z3ggNNZXl-A-0jbZHJa69rynoLyaSC-I0i8WfM6ALWlgK_p6b_VfNFwGY9IhY/s850/TheoDauNTV-6.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="601" data-original-width="850" height="283" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgeLiqtvVygh8JXWUig3JFX-FOp6vQr5Xovo6dH459Rbsha-Jox4SxS3T1scMBg6mdnXoKWiB_zu9Tg7Z2iy7HHhtCPTDUEiTH-dMn9FTVrJ8qXOKK0qqomafTeecOi34z3ggNNZXl-A-0jbZHJa69rynoLyaSC-I0i8WfM6ALWlgK_p6b_VfNFwGY9IhY/w400-h283/TheoDauNTV-6.jpg" width="400" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 6: </em></strong><em>Ngô Thế Vinh trên khúc sông Lancang-Mekong, xa phía sau là nơi sắp xây con đập Cảnh Hồng / Jinghong 1.350 MW, là con đập dòng chính thứ ba, sau hai con đập Mạn Loan và Đại Chiếu Sơn. </em>[photo by Nguyễn Văn Hưng, 09.2002]</p>
<p>Chẳng hạn, gần đây nhất là các bài viết:</p>
<p> – <em>Bước Qua Lời Nguyền Tiến Hành Dự Án Đập Stung Treng Là Hủy Diệt Môi Sinh – Ecocide – Một Nhìn Lại</em> khi Phnom Penh tuyên bố cho tái phục hoạt / resurrection dự án thủy điện Stung Treng 1.400 MW trên dòng chính sông Mekong phía đông bắc Cam Bốt sát ranh giới với Lào vào năm 2022.</p>
<p> – <em>Nửa Thế Kỷ Cải Tạo Làm Cạn Kiệt Tài Nguyên Một ĐBSCL Đang Chết Dần</em> về công trình “thế kỷ và nghịch thiên” Siêu Cống Cái Lớn Cái Bé của VN được vận hành từ tháng 01/2022 đang giết chết “Dòng Chảy Sinh Thái” của cả một hệ thống sông rạch, gây ra những tác động tiêu cực và ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống cư dân trong vùng.</p>
<p> – <em>Từ đế chế Phù Nam – Khmer tới con kênh lịch sử Funan Techo của vương quốc Cam Bốt</em> và <em>Phù Nam Techo – Con kênh lịch sử & Những bước tiến hành dự án giữa triều đại “Cha và Con”</em> về con kênh lịch sử của Vương quốc Cam Bốt 2024-2028 kết nối Cảng Phnom Penh ra tới Vịnh Thái Lan.</p>
<p>Xin được kết thúc bài viết với bài thơ Mekong – nghe như những tiếng chuông gióng của Đỗ Nghê, một người bạn đồng môn viết tặng ông.</p>
<p> MEKONG<br />
<em>tặng Ngô Thế Vinh</em></p>
<p><em>Mekong Mekong</em><br />
<em>Dòng sông nghẽn mạch</em> [1]<br />
<em>Mekong Mekong</em><br />
<em>Biển Đông dậy sóng</em> <a id="_Hlk152300767" name="_Hlk152300767">[2]</a><br />
<em>Mekong Mekong</em><br />
<em>Phù sa cạn kiệt</em><br />
<em>Mekong Mekong</em><br />
<em>Cá tôm nghẹn uất</em><br />
<em>Mekong Mekong</em><br />
<em>Có người thầy thuốc</em><br />
<em>Mekong Mekong</em><br />
<em>Lệ tràn khóe mắt…</em></p>
<p>Đỗ Nghê<br />
(2014)<br />
……………………….<br />
[1], [2]: tác phẩm của Ngô Thế Vinh</p>
<p> </p>
<p>TRẦN THỊ NGUYỆT MAI<br />
<em>Tháng 11/2023</em></p>
<p><em> </em></p>
<p><a id="_Hlk152299021" name="_Hlk152299021"><strong>Tham</strong></a><strong> khảo:</strong><br />
</p><ol>
<li> <em>Ngô Thế Vinh – Tình Quê Hương Trong Nhạc Phạm Duy Và Những Chân Dung</em><br />
<a href="https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2022/07/25/tinh-que-huong-trong-nhac-pham-duy-va-nhung-chan-dung/"><em>https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2022/07/25/tinh-que-huong-trong-nhac-pham-duy-va-nhung-chan-dung/</em></a></li><br />
<li><em>Ngô Thế Vinh – Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa I – Việt Ecology Press 2017</em></li><br />
<li><em>Nguyễn Mạnh Trinh phỏng vấn Ngô Thế Vinh (tháng 01/1996)</em><br />
<a href="https://www.diendantheky.net/2021/09/phong-van-nha-van-ngo-vinh-cua-nguyen_4.html"><em>https://www.diendantheky.net/2021/09/phong-van-nha-van-ngo-vinh-cua-nguyen_4.html</em></a></li><br />
<li><em>Tâm Diệu – Phật giáo và cuộc chính biến 1-11-1963</em><br />
<a href="https://thuvienhoasen.org/a18298/phat-giao-va-cuoc-chinh-bien-1-11-1963"><em>https://thuvienhoasen.org/a18298/phat-giao-va-cuoc-chinh-bien-1-11-1963</em></a></li><br />
<li><em>Trần Xuân Dũng – Hồi sinh đợi ngày – Y sĩ tiền tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn – Người đi tìm mùa xuân [Tập san Y sĩ Việt Nam Canada và Viet Ecology Press 2019]</em></li><br />
<li><em>Phỏng vấn nhà văn Ngô Thế Vinh tác giả “Vòng đai xanh” do Nguyễn Mai thực hiện </em><br />
<em>Nguồn: Chính Văn số 1 Bộ Mới tháng 7-1972. Tài liệu do nhà văn Trần Hoài Thư sưu tập.</em><br />
<a href="https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/04/18/phong-van-nha-van-ngo-the-vinh-tac-gia-vong-dai-xanh/#more-38241"><em>Phỏng vấn nhà văn NGÔ THẾ VINH tác giả “Vòng đai xanh” | Trần Thị Nguyệt Mai (wordpress.com)</em></a></li><br />
<li><em>Ngô Thế Vinh – Tìm lại thời gian đã mất: Nguyệt san Tình Thương (1963-1967) </em><br />
<a href="https://damau.org/10605/tim-lai-thoi-gian-da-mat-nguyet-san-tinh-thuong-1963-1967"><em>https://damau.org/10605/tim-lai-thoi-gian-da-mat-nguyet-san-tinh-thuong-1963-1967</em></a></li><br />
<li><em>Các tạp chí văn học miền Nam – Nguyệt san Tình Thương do Trần Hoài Thư sưu tập.</em><br />
<a href="https://tranhoaithu42.com/2021/05/17/nguyet-san-tinh-thuong-tai-chinh-trang/"><em>https://tranhoaithu42.com/2021/05/17/nguyet-san-tinh-thuong-tai-chinh-trang/</em></a></li><br />
<li><em>Hoàng Ngọc Nguyên – Vòng Đai Xanh: Một cái chết được báo trước</em><br />
<a href="https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/03/03/vong-dai-xanh-mot-cai-chet-duoc-bao-truoc/#more-37695"><em>https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2021/03/03/vong-dai-xanh-mot-cai-chet-duoc-bao-truoc/#more-37695</em></a></li><br />
<li><em>Bách Khoa đàm thoại với NTV từ Vòng Đai Xanh đến Mặt Trận Ở Sài Gòn do Lê Ngộ Châu thực hiện – số 370 ngày 01/06/1972.</em></li><br />
<li><em>Ngô Thế Vinh – Cựu Kim Sơn Chưa Hề Giã Biệt</em><br />
<a href="https://www.diendantheky.net/2015/04/ngo-vinh-cuu-kim-son-chua-he-gia-biet.html"><em>https://www.diendantheky.net/2015/04/ngo-vinh-cuu-kim-son-chua-he-gia-biet.html</em></a></li><br />
<li><em>Ngô Thế Vinh – Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch – Văn Học Press & Việt Ecology Press 2021</em></li><br />
<li> <em>Lê Quỳnh Mai – Tác giả, với chúng ta - Phỏng vấn nhà văn Ngô Thế Vinh (tháng 3/2001)</em></li><br />
<li><em>Ngô Thế Vinh – Mặt Trận Ở Sài Gòn </em><em>– Văn Học Press & Việt Ecology Press 2020</em></li><br />
<li><em>Phạm Ngọc Lân – Cha Vô Danh – Editions L'Harmattan (28/2/2019)</em></li><br />
<li><em>Ngô Thế Vinh – Vòng Đai Xanh – Văn Học Press & Việt Ecology Press 2020</em></li><br />
<li><em>Lê Quỳnh – Phỏng vấn Ngô Thế Vinh, người đi dọc 4.800km sông Mekong</em><br />
<a href="https://cvdvn.net/2022/10/17/phong-van-ngo-the-vinh-nguoi-di-doc-4-800km-song-mekong-2/"><em>https://cvdvn.net/2022/10/17/phong-van-ngo-the-vinh-nguoi-di-doc-4-800km-song-mekong-2/</em></a></li>
</ol>
<p> </p>
<p><a id="_Hlk155751808" name="_Hlk155751808"></a><strong><em>TRẦN THỊ NGUYỆT MAI</em></strong></p>
<p><em></em></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><em><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhnzllZLTQHcriXFP7Je00ikUAj7RxmrIoadZCQEdwcXjw2Iqj3NcAqOp-IuTRAGV87FYso4d2uAau6q0EwAKEIUAYd3sDuZL7w8_i5qKsVMDtFnw006AyP2Vq_vmqKwGEOfK5DCt-yJu013EAhIqvyIrEHC7HFaY2q0KBS0RAbp9W-yvQBMlDDuBkihF0/s310/TheoDauNTV-7.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="310" data-original-width="217" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhnzllZLTQHcriXFP7Je00ikUAj7RxmrIoadZCQEdwcXjw2Iqj3NcAqOp-IuTRAGV87FYso4d2uAau6q0EwAKEIUAYd3sDuZL7w8_i5qKsVMDtFnw006AyP2Vq_vmqKwGEOfK5DCt-yJu013EAhIqvyIrEHC7HFaY2q0KBS0RAbp9W-yvQBMlDDuBkihF0/w140-h200/TheoDauNTV-7.jpg" width="140" /></a></em></div><em>Tên</em><em> thật, cũng là bút hiệu. S</em><em>inh ra</em><em> và lớn lên trong suốt chiều dài lịch sử của miền Nam </em><em>tại Sài Gòn. Thuyền nhân tháng 3-1987. Định cư tại Hoa Kỳ</em><em> từ tháng 6-1988</em><em>.</em><em>Hiện sinh</em><em> sống và làm việc </em><em>tại tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Cộng tác với tạp chí Thư Quán Bản Thảo từ 2011</em><em> và tạp chí Ngôn Ngữ từ 2019</em><em>.</em><em> Chủ biên trang blog Trần Thị Nguyệt Mai. Có bài viết đi trên các trang mạng Da Màu, Diễn Đàn Thế Kỷ, Văn Việt, Du Tử Lê, Phố Văn, Phạm Cao Hoàng, Học Xá... [Ký họa chân dung TTNM của họa sĩ Đinh Cường]</em><p></p>
<p>-----------------------</p>
<p>– Trích tạp chí <em>Ngôn Ngữ Đặc Biệt tháng 2.2024: Ngô Thế Vinh – Bằng Hữu và Văn Chương.</em></p>
<p>Sách đã có bán trên Amazon theo link dẫn sau đây:</p>
<p> * Đen trắng (ấn phí: $50.00):<br />
<a href="https://www.amazon.com/T%E1%BA%A1p-Ng%C3%B4n-Bi%E1%BB%87t-black-white/dp/B0CTW95RH6/">https://www.amazon.com/T%E1%BA%A1p-Ng%C3%B4n-Bi%E1%BB%87t-black-white/dp/B0CTW95RH6/</a></p>
<p>* Màu (ấn phí: $60.00):<br />
<a href="https://www.amazon.com/T%E1%BA%A1p-Ch%C3%AD-Ng%C3%B4n-Ng%E1%BB%AF-Bi%E1%BB%87t/dp/B0CTW66HRW/">https://www.amazon.com/T%E1%BA%A1p-Ch%C3%AD-Ng%C3%B4n-Ng%E1%BB%AF-Bi%E1%BB%87t/dp/B0CTW66HRW/</a></p><p></p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-60908217911027015342024-02-23T18:52:00.000-08:002024-02-23T18:52:06.191-08:00VIỆT BÁO GIỚI THIỆU SỐ NGÔN NGỮ ĐẶC BIỆT THÁNG 02.2024<p><strong>LÁ THƯ CỦA NHÀ THƠ LUÂN HOÁN</strong><br />
<strong>CHỦ BÚT TẠP CHÍ NGÔN NGỮ</strong></p>
<p>NGÔ THẾ VINH, BẰNG HỮU VÀ VĂN CHƯƠNG là tuyển tập đặc biệt thứ ba, do tạp chí Ngôn Ngữ hân hạnh đứng tên xuất bản và phát hành rộng rãi (sau hai tuyển tập Hoàng Ngọc Biên + Tô Thùy Yên, và Cung Tích Biền).</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgX3EukaDT1Td0pHW9wCB4kBcrcYHU0UDhcU9NgCApTyoBFNFLiz3t8U_9qOT-ezCwq_bXNL-mIMzw2E4w7eMT5wb2u-WYt4zRX8owdIneFgeNGN1rGDFjrKuTuMwlhVJUrcDsMoHY43WDAMyDktVsMvXdRnOdbg2j9MiOL5eV9SiN2uBYQpM8WPCK-Oy0/s1126/NTV-2024.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="757" data-original-width="1126" height="430" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgX3EukaDT1Td0pHW9wCB4kBcrcYHU0UDhcU9NgCApTyoBFNFLiz3t8U_9qOT-ezCwq_bXNL-mIMzw2E4w7eMT5wb2u-WYt4zRX8owdIneFgeNGN1rGDFjrKuTuMwlhVJUrcDsMoHY43WDAMyDktVsMvXdRnOdbg2j9MiOL5eV9SiN2uBYQpM8WPCK-Oy0/w640-h430/NTV-2024.jpg" width="640" /></a></div><p><span></span></p><a name='more'></a>Đây là cuốn sách tập trung nguồn tư liệu từ nhiều người viết về một người, có tầm cỡ của Văn Học Việt Nam Cộng Hòa. Tác giả gốc miền Bắc, trưởng thành và dựng nghiệp tại miền Nam; với tay phải: Y khoa Bác Sĩ, tay trái: nhà văn. Cũng có thể ngược lại, vì cả hai thành công tuyệt vời như nhau.<p></p>
<p>Hiện tại ông hành nghề Y tại Hoa Kỳ, song song với việc viết văn cùng nghiên cứu về Dòng Sông Cửu Long, một công trình khảo sát tận hiện trường đầy tâm huyết, không dễ có người thứ hai thực hiện.</p>
<p> Ngôn Ngữ kính mời quý bạn đọc lưu giữ tác phẩm này trong tủ sách gia đình. Những bài giới thiệu, điểm qua nhiều tác phẩm của Ngô Thế Vinh, từ nhiều tác giả có uy tín chắc chắn sẽ làm vừa lòng quý vị. <strong> </strong></p>
<p><strong> </strong></p>
<p><strong>TIỂU SỬ NGÔ THẾ VINH</strong></p>
<p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhb_-lt8ujt8xXcV0wc4zx0TM-cBNmfd9HkPtL_Nu2YwbLF49y_RzrxBqWBJFSphcxAubODcV8E1dL38rA739-RvkuIcCVKuTb2sBdTy-jTwady9uAJzulqDpd3NAyL4qp1I0fOowdk6Vy77j0p9mR3B-VxYAyZXBGDpoFcvueNMoGbWcOBtrE4YWcDh38/s352/NTV-2024-2.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="352" data-original-width="336" height="200" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhb_-lt8ujt8xXcV0wc4zx0TM-cBNmfd9HkPtL_Nu2YwbLF49y_RzrxBqWBJFSphcxAubODcV8E1dL38rA739-RvkuIcCVKuTb2sBdTy-jTwady9uAJzulqDpd3NAyL4qp1I0fOowdk6Vy77j0p9mR3B-VxYAyZXBGDpoFcvueNMoGbWcOBtrE4YWcDh38/w191-h200/NTV-2024-2.jpg" width="191" /></a></div>Nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động môi sinh. Tên thật <strong>Ngô Thế Vinh</strong>, cũng là bút hiệu. Chánh quán Hà Nội. Sinh năm 1941 tại Thanh Hóa. Tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn 1968. Trong ban biên tập, nguyên tổng thư ký rồi chủ bút báo sinh viên Tình Thương trường Y khoa Sài Gòn từ 1963 tới 1966 khi báo đình bản. Nguyên y sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Tu nghiệp ngành Y khoa Phục hồi tại Letterman General Hospital San Francisco. Bác sĩ huấn luyện Trường Quân Y. Sau 1975, tù ba năm qua các trại cải tạo: Suối Máu, Trảng Lớn, Đồng Ban, Bù Gia Mập. Từ 1979, bác sĩ điều trị và giảng huấn tại Trung Tâm Phục Hồi và Trường Vật Lý Trị Liệu Sài Gòn. Tới Mỹ 1983, bác sĩ nội trú rồi thường trú các bệnh viện Đại học SUNY Downstate Brooklyn, New York. Tốt nghiệp ngành Nội khoa, bác sĩ điều trị và giảng huấn tại một bệnh viện miền Nam California. Ông cũng là một tác giả không mỏi mệt, với những tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, bình luận văn hóa / cultural commentary, và những phóng sự điều tra. Đặc biệt, ông đã từng du hành khám phá con sông lớn của thế giới: Mekong, mạch sống của hơn 70 triệu cư dân sống hai bên ven sông và Đồng Bằng Sông Cửu Long, và đã viết hai cuốn sách về sự sống còn của con sông này.<p></p>
<p><strong>Tác phẩm đã xuất bản:</strong></p>
<p><strong>Tiếng Việt:</strong><br />
• <em>Mây Bão</em> [Sông Mã, Sài Gòn 1963; Văn Nghệ, California 1993] • <em>Bóng </em><em>Đ</em><em>êm</em> [Khai Trí, Sài Gòn 1964] • <em>Gió Mùa</em> [Sông Mã, Sài Gòn 1965] • <em>Vòng </em><em>Đ</em><em>ai Xanh</em> [Thái Độ; Sài Gòn 1970; Văn Nghệ, California 1987; Văn Học Press, California 2018] • <em>Mặt Trận Ở Sài</em> Gòn [Văn Nghệ, California 1996] • <em>Cửu Long Cạn Dòng Biển </em><em>Đ</em><em>ông Dậy Sóng</em> [Văn Nghệ, California 2000, tái bản 2001; Nxb Giấy Vụn Việt Nam 2014] • <em>Mekong – Dòng Sông Nghẽn Mạch</em> [Văn Nghệ, California 3/2007; Văn Nghệ Mới 12/2007; Nxb Giấy Vụn, Việt Nam 2012] • Audiobook: <em>Mekong – Dòng Sông Nghẽn Mạch</em> [Văn Nghệ Mới, California 2007; Việt Ecology Press & Nhân Ảnh 2017] • <em>Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa</em><em> I</em> [Việt Ecology Press 2017] • <em>Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa</em><em> II</em> [Việt Ecology Press 2022] • <em>Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn, Người Đi Tìm Mùa</em><em>Xuân</em> [Tập San Y Sĩ Việt Nam Canada, Việt Ecology Press 2019]</p>
<p><strong>Tiếng Anh:</strong><br />
• <em>The Green Belt</em> [Ivy House 2004]<strong> </strong>• <em>The Battle of Saigon</em> [Xlibris 2005]<strong> </strong>• <em>Mekong – The Occluding River </em>[iUniverse 2010]<strong> </strong>• <em>The Nine Dragons Drained Dry, The East Sea in</em> <em>Turmoil</em><strong> </strong>[Việt Ecology Press & Nxb Giấy Vụn, Vietnam 2016]<strong> </strong>• <em>The Creative World of the South Vietnam 1954-1975 to Present</em> [Việt Ecology Press, 2024]<strong> </strong></p>
<p><strong>Song ngữ Việt-Anh:</strong><br />
• <em>Mặt Trận Ở Sài Gòn / The Battle of Saigon</em> [Văn Học Press & Việt Ecology Press 2020] • Vòng Đai Xanh / The Green Belt [Văn Học Press & Việt Ecology Press 2020] • <em>Mekong </em><em>– </em><em>Dòng Sông Nghẽn Mạch / Mekong </em><em>– </em><em>The</em><em>Occluding River</em> [Văn Học Press & Việt Ecology Press 2021]</p>
<p><strong>Y khoa: </strong><br />
• <em>An Epidemic of triorthocresyl phosphate Poisoning in Vietnam, 1967</em> (Intoxication by Aircraft Turbo Engine Lube Oil), Doctorat en Médecine, diplôme d’Etat, Saigon, 1969 • <em>Khái Luận Y Học Phục Hồi</em>, Nxb Y Học 1983 • <em>Từ điển Y Học Phục Hồi Anh-Pháp-Việt</em>, Nxb Y Học 1984. </p>
<p><strong>Giải thưởng:</strong><br />
• Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH 1971: <em>Vòng Đai Xanh</em> • Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do: <em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng</em> • Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017: <em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng</em><em> và</em><em> Mekong – Dòng Sông Nghẽn Mạch.</em></p>
<p><strong> </strong><br />
<strong>GIỮ XANH TRÁI ĐẤT NÀY </strong></p>
<p>NGÔ THẾ VINH, BẰNG HỮU VÀ VĂN CHƯƠNG – ngoài bản in, Việt Báo giới thiệu với độc giả cuốn <strong><em>f</em></strong><strong><em>lipbook </em></strong><strong><em>/ </em></strong><strong><em>cuốn</em></strong><strong><em> sách lật trang</em></strong>700 trang Tạp Chí Ngôn Ngữ Đặc Biệt Tháng 02.2024 </p>
<p><a href="https://archive.org/details/ngo-the-vinh" target="_blank"><strong>https://archive.org/details/ngo-the-vinh</strong></a></p>
<p>như một <strong>Thiệp Chúc Xuân</strong> của Toà Soạn Ngôn Ngữ và tác giả Ngô Thế Vinh. Hy vọng cuốn flipbook này sẽ dễ đọc, và phần hình ảnh đủ sắc nét; để <em>cuốn</em><em> sách lật trang này </em>có thể một phần thay cho các bản in, với ý hướng <strong><em>Keep Our Planet Green</em></strong><strong><em>.</em></strong><strong><em> </em></strong></p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-942293452704558322024-01-23T00:31:00.000-08:002024-01-23T00:31:35.558-08:00Ngô Thế Vinh: nhà văn, người lính, và trí thức đích thực<p style="text-align: center;">NGUYỄN VĂN TUẤN</p><p>"<em>Hai tác phẩm đó viết về sinh mệnh của một dòng sông là mạch sống không chỉ của Việt Nam mà còn của hơn 70 triệu dân thuộc bảy quốc gia ven sông</em>."</p>
<p>Đó là lời phát biểu như một tâm sự của tác giả Nhà văn, Bác sĩ Ngô Thế Vinh nhân dịp anh được trao giải thưởng Văn Việt vào Tháng Ba năm 2017. Hai tác phẩm mà anh đề cập đến là "<em>Cửu Long Cạn Dòng</em><em>,</em><em> Biển Đông Dậy Sóng</em>" và "<em>Mekong</em><em> -</em><em> Dòng Sông Nghẽn Mạch</em>"<em>. </em>Đó cũng chính là hai tác phẩm làm nên tên tuổi của tác giả Ngô Thế Vinh. Ngày nay, trước những tranh chấp ở Biển Đông và ở những xung đột mới xảy ra ở Tây Nguyên, hai tác phẩm trên trở nên cần thiết hơn hết cho những ai muốn có một cái nhìn ngọn ngành và đằng sau những vấn đề thời sự đó. </p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgEdbNPd7TFCRr_K075cf1GkQuhsnR3rN576hdnDCXWEq3i147bLp9Tvp3Yiu8HtAsdN58AOSZp1ktGqOcn3BsskpAZFQNt5kh3q5n3m0ljgpm7vic4PDX1FS5mZpU8y278dG1vPH05yllWURGpQKrjuVMvWWeqtjcv1VlC8osH6REpFHOsJ0izsbOVUl0/s873/NVT-NhaVanNguoiLinh-1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="655" data-original-width="873" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgEdbNPd7TFCRr_K075cf1GkQuhsnR3rN576hdnDCXWEq3i147bLp9Tvp3Yiu8HtAsdN58AOSZp1ktGqOcn3BsskpAZFQNt5kh3q5n3m0ljgpm7vic4PDX1FS5mZpU8y278dG1vPH05yllWURGpQKrjuVMvWWeqtjcv1VlC8osH6REpFHOsJ0izsbOVUl0/w400-h300/NVT-NhaVanNguoiLinh-1.jpg" width="400" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 1:</em></strong><em> Sau 3 năm gián đoạn vì đại dịch, Nguyễn Văn Tuấn trở lại Mỹ. Từ Đại học Stanford, NVT xuống Nam California, mấy anh em có dịp gặp lại nhau, từ phải: GS Lê Xuân Khoa, Phạm Phan Long, Nguyễn Văn Tuấn, Ngô Minh Triết, Đinh Quang Anh Thái, Ngô Thế Vinh. </em>[Laguna Beach,10/2023]<span></span></p><a name='more'></a><p></p>
<p>Tôi gọi tác giả Ngô Thế Vinh là 'Anh', vì tác giả là một người bạn vong niên mà tôi đã quen biết chừng 20 năm qua. Năm nào sang Hoa Kỳ công tác, tôi đều ghé thăm anh và bạn bè, và có những buổi trò chuyện về những chủ đề chung quanh các tác phẩm và bài viết của anh. Qua những trò chuyện như thế, tôi nghĩ anh Ngô Thế Vinh không chỉ là một nhà văn, một người lính, mà quan trọng hơn là một nhà trí thức. Dù là nhà văn, người lính, hay nhà trí thức, những ý tưởng của anh thường đi trước thời cuộc. </p>
<p>Năm nay, anh ấy đã ở vào cái tuổi 'cổ lai hy'. Anh sanh năm 1941 tại Thanh Hóa, nhưng nguyên quán Hà Nội, và lớn lên ở Sài Gòn. Tốt nghiệp bác sĩ từ Đại học Y Khoa Sài Gòn năm 1968, và làm y sĩ trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù trong quân đội VNCH. Sau 1975, anh bị giam tù 'cải tạo' hơn 3 năm. Sau khi được trả tự do, anh phục vụ tại Viện Quốc gia Phục hồi một thời gian, và từng có thời gian làm việc với ông Nguyễn Thiện Thành (thân phụ ông Nguyễn Thiện Nhân). Năm 1983, anh đi đoàn tụ gia đình và định cư ở Hoa Kỳ. Đến Hoa Kỳ, anh học lại và trở thành bác sĩ nội khoa và giáo sư kiêm nhiệm (Clinical Assistant Professor) của trường Y thuộc Đại học California tại Irvine (UCI). Ngoài nghề thầy thuốc, anh được biết đến nhiều qua những tác phẩm văn học trước và sau 1975 và những công trình biên khảo sau 1975. </p>
<p><strong>Nhà</strong><strong> văn </strong></p>
<p>Anh có duyên với văn chương khá sớm. Ngay từ thời sinh viên y khoa, anh đã viết văn, và từng làm chủ bút báo sinh viên <em>Tình Thương</em> vào thập niên 1960s. Báo <em>Tình Thương</em> là diễn đàn trẻ nhưng đã giúp anh trở thành một cây bút thành danh với những tác phẩm nổi tiếng như <em>Mây Bão</em> (1963), <em>Bóng Đêm</em> (1964), <em>Gió Mùa </em>(1965), và đặc biệt là <em>Vòng Đai Xanh</em> (1970). Tác phẩm <em>Vòng Đai Xanh</em> (Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc 1971) là những quan sát của anh, lúc đó là một người lính VNCH, về xung đột giữa người Thượng và người Kinh. Từ những quan sát thực tế và suy nghiệm lịch sử, anh dự báo rằng người Thượng sẽ nổi dậy chống chánh quyền người Kinh. Những năm sau đó và ngay cả ngày nay cho thấy dự báo đó đã thành hiện thực. Anh là người đi trước thời cuộc. </p>
<p>Đọc các tác phẩm của Nhà văn Ngô Thế Vinh, người đọc sẽ thấy chất thời sự và thực tế bàng bạc trong từng trang giấy. Không có những câu chuyện diễm tình trong các tác phẩm của anh; thay vào đó là những suy tư dằn vặt về đất nước và con người. Trong truyện <em>Nước Mắt của Đức Phật, </em>tác giả viết rằng: "<em>Trong 30 năm điều mà chúng tôi không tự biết - là mọi suy tư của mỗi người Việt đã được điều kiện hóa để họ không còn thấy nhau. Nói chuyện với một tù binh cộng sản Bắc Việt tôi đã không thể tưởng tượng rằng giữa người Việt nói tiếng mẹ đẻ nhưng chúng tôi đã không còn chung một ngôn ngữ." </em>Câu văn ngắn đó thiết tưởng vẫn còn áp dụng cho đến ngày nay. Cuộc xung đột ý thức hệ giữa tự do và giáo điều đã tạo nên một cộng đồng dân tộc mà từ suy tư, hành vi đến ngôn ngữ của họ rất khác với người anh em bên kia chiến tuyến. Hai người anh em cùng nói tiếng Việt, nhưng là loại tiếng Việt khác phiên bản. </p>
<p>Đọc truyện của Ngô Thế Vinh, người đọc có thể cảm thấy như đọc những ký ức được lắp ghép lại thành một tác phẩm. Có lúc tác giả viết về vùng <em>Đất Khổ</em>, nhưng lại liên tưởng đến chuyện của 30 năm trước về nhân vật Kim Đồng của Tô Hoài, rồi ngay sau đó tác giả viết về một Sài Gòn đã mất tên vào năm 1981. Kim Đồng là tượng trưng cho giấc mơ cách mạng đẹp đẽ, nhưng 30 năm sau bao nhiêu thế hệ Kim Đồng nhân danh 'giấc mơ Việt Nam' cầm súng M16 hay AK tiêu diệt lẫn nhau. </p>
<p>Một cuộc xung đột ý thức khác cũng diễn ra trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Sau 1975, như chúng ta biết, có hàng triệu người Việt đã liều mạng bỏ nước ra đi, và một số đông đã được tiếp nhận định cư ở Mỹ. Một thế hệ mới hình thành trên đất Mỹ, và thế hệ mới có những cái nhìn về Việt Nam khác với cha ông họ. Họ tuy rất bất bình trước những bất bình đẳng ở Việt Nam, nhưng họ sẵn sàng bỏ thời gian về quê giúp đỡ đồng bào hơn là cái nhìn cứng nhắc, thậm chí 'một đi không trở lại' như thế hệ cha ông. Những cuộc xung đột trong gia đình xảy ra, như giữa nhân vật Bs Toản và thân phụ của anh về Việt Nam: anh nghĩ về tương lai bên quê nhà, còn cha anh thì cứ khắc khoải về quá khứ chiến tranh và chia rẽ. Tuy nhiên, truyện <em>Giấc Mộng Con Năm 2000 </em>có thể xem là một câu chuyện kết thúc có hậu, khi có những người y sĩ nghĩ đến những dự án văn hóa để ghi lại những thành tựu của một cuộc di dân vĩ đại. </p>
<p><strong>Người</strong><strong> lính </strong></p>
<p>Ngô Thế Vinh là một người lính, từng có mặt ngay trong những mặt trận ác liệt thời thập niên 1970s. Chẳng hạn như trong tác phẩm <em>Mặt trận ở Sài Gòn</em>, Ngô Thế Vinh viết về những cuộc hành quân trên vùng rừng núi Cao Nguyên, qua Cam Bốt, về thành phố Sài Gòn. Những nơi họ đã đi qua để lại nhiều ký ức và những suy tư về thời cuộc và quê hương, về thân phận tuổi trẻ và tương lai.</p>
<p>Đọc tác phẩm của anh, độc giả sẽ hình dung ra những lần giáp trận với những người anh em bên kia chiến tuyến, những trận mưa bom đạn từ trên không, và những cái chết không toàn thân của biết bao người lính của cả hai bên chiến tuyến. Đó là những câu chuyện về những người lính khi ra trận thì gan dạ, can trường, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng sâu thẳm trong nội tâm thì đầy trăn trở về thời cuộc và giàu nhân văn tính. Ngay cả trong bộ đồ rằn ri xem ra dữ dằn, nhưng qua hành vi và cách nói thì họ chỉ là những thư sinh nho nhã, đôn hậu. Hay như người y tá trưởng được <em>lưu dung</em> sau 1975 trong Tổng Y Viện Cộng Hòa vẫn cần mẫn chăm sóc cho những người lính bên kia chiến tuyến để rồi cũng bị sa thải về quê và sống trong nghèo nàn, đau khổ. </p>
<p>Nhưng không chỉ là người lính ngoài chiến trận, anh còn có những cái nhìn của một nhà quan sát thời cuộc. Những xung đột giữa các học thuyết chánh trị ngoại lai dẫn đến những cái chết thảm cho hàng triệu người giúp cho thanh niên Việt Nam trưởng thành trước tuổi. Người lính đối diện trước hiểm nguy và cái chết trong giây phút, họ càng suy nghĩ về bản thân hơn. Tác giả Ngô Thế Vinh nhận xét rất đúng rằng: "<em>Trong suốt chiều dài và rộng của lịch sử, tuổi trẻ Việt Nam đã được nuôi sống bằng những gieo trồng tang thương và nỗi chết. Tuổi đó không tính bằng tháng năm mà bằng những đổi thay không gian cùng với gót giày chiến binh của họ -- đã và đang còn dẫm nát từng ngọn cỏ xanh còn sót lại trên quê hương." </em></p>
<p>Trong truyện <em>Nước Mắt của Đức Phật </em>(viết ở thị trấn Krek, Cam Bốt 1971) tác giả viết về một lần hành quân sang Cam Bốt và ngay từ lúc đặt chân đến xứ Chùa Tháp đã gặp ngay những phản ứng kém thân thiện của người bản xứ. Qua lời nói của một nhà sư, tác giả muốn nói lên tình cảnh éo le của Cam Bốt: trở thành một đấu trường trong sự xung đột giữa hai phe người Việt, và tác giả tự hỏi "<em>Trong cái mênh mang của cơn say lịch sử, có ai nghĩ được rằng cuộc chiến đang diễn ra giữa những người Việt lại có thể xóa nhòa một nền văn minh Angkor cổ kính</em>."</p>
<p>Qua những tác phẩm như <em>Mặt trận ở Sài Gòn</em><em>,</em> Ngô Thế Vinh cũng muốn gởi vài tâm tình của người lính từ chiến trận về nơi 'phồn hoa đô thị' như Sài Gòn. Tác giả viết mà như thuật lại rằng một nhóm lính biệt cách từ rừng núi Tây Nguyên về Sài Gòn, như là những kẻ về từ 'cõi chết'. Những người lính từ chiến trận mới về phải đối diện với những phong trào sinh viên biểu tình phản chiến, và bị giằng co một bên là lý tưởng xã hội và một bên là nhiệm vụ bảo vệ sự ổn định của xã hội. Người lính chợt nhận ra rằng họ không chỉ đối diện với cái chết trong rừng sâu núi thẳm, mà còn trực diện với một trận tuyến xã hội với quá nhiều bất công và thối nát. Đó là một "<em>xã hội trên cao, lộng lẫy sáng choang và thản nhiên hạnh phúc</em>" ở những người miệng thì kêu gào chiến tranh nhưng họ lại đứng ngoài cuộc chiến. Vậy thì người lính bảo vệ cái gì đây. Không lẽ bảo vệ<em> "cho một con thuyền xã hội xa hoa ngao du trên dòng sông loang máu, nổi trôi đầy những xác chết đồng loại</em>". Chiến trường của người lính bây giờ là ngay tại Sài Gòn này, nhưng họ là những chiến binh ngoài chiến trường, chớ không phải 'chiến sĩ xã hội'. Tác phẩm này đã làm tác giả gặp rắc rối với chánh quyền VNCH lúc đó. Tòa án quân sự VNCH nhận định rằng truyện ngắn "<em>có luận điệu phương hại trật tự công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần chiến đấu quân đội</em>". </p>
<p>Là người lính và cũng là nhà văn, Ngô Thế Vinh là một chứng nhân của chiến tranh, chứng nhân của "<em>những bi kịch của một thời nhiễu nhương và lừa dối hào nhoáng</em>". Anh đã chắt chiu những trải nghiệm thực tế trong chiến trận ở núi rừng Tây Nguyên và đúc kết lại thành những tác phẩm mang tính '<em>sử thuyết</em>' hay một dạng <em>historicity</em>, hơn là tiểu thuyết. Thật vậy, nói là truyện ngắn, nhưng người đọc có thể cảm nhận được đó là những ghi chép bằng một ngòi bút điêu luyện miêu tả một cách sinh động những tình huống xảy ra, cùng những quan sát tinh tế. Truyện ngắn hay truyện dài của Ngô Thế Vinh chỉ là cái cớ hoặc là cái diễn đàn để cung cấp chứng từ. Các nhân vật trong truyện cũng có thể là chính tác giả hay được tác giả mượn để nêu lên những trăn trở cùng những suy tư khắc khoải trước chiến cuộc. </p>
<p><strong>Một trí thức </strong></p>
<p>Tôi nghĩ điều làm cho người đời sẽ nhớ đến Ngô Thế Vinh là tác phẩm <em>Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng</em>(xuất bản lần đầu năm 2000). Tôi đã có dịp đọc và viết lời giới thiệu tác phẩm này từ hơn 15 năm trước. Đó là một công trình biên khảo mang tính sử thuyết, hơn là một tác phẩm văn học. Để hoàn thành tác phẩm này, anh đã dày công khảo sát sử liệu liên quan đến các đế chế vùng Đông Nam Á, về nguồn gốc con sông Mekong, và lồng các sử liệu đó trong bối cảnh hiện tại. Về bối cảnh hiện tại, anh cũng đã thực hiện nhiều chuyến đi thực địa (do anh tự túc) đến tận những con đập Trung Cộng đang xây dựng để chứng kiến tận mắt và thu thập thông tin, và những bức ảnh rất độc đáo mà tôi đoán anh phải bỏ nhiều công sức (và tiền bạc) để có được. Kết quả là một tác phẩm đồ sộ mà Văn Việt đã chọn để trao Giải Đặc Biệt. </p>
<p>Qua <em>Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng</em>, anh muốn gởi lời cảnh báo về tai họa môi sinh và những việc làm nguy hiểm của nhà cầm quyền Trung Cộng. Anh viết trong lời nói đầu, “<em>Nếu như cuốn sách chuyên chở được một số nét khái quát và cập nhật về con sông Mekong, tạo được sự chú ý của người đọc tới sinh mệnh của một dòng sông lớn thứ 12 trên thế giới thì đó chính là mong ước của người viết</em>”. Trong phần cuối của cuốn sách, anh cảnh báo: “<em>Chỉ riêng với chuỗi những con đập bậc thềm Vân Nam khi hoàn tất dự trù sẽ ngăn không cho lũ đổ về nữa – tức khắc đó sẽ là một thảm họa cho Biển Hồ, sẽ như một trái tim thiếu máu phải ngưng đập và đồng thời tạo ra một chuỗi phản ứng suy thoái dây chuyền – chain reactions trên toàn hệ sinh thái sông Mekong, trong đó có Đồng bằng sông Cửu Long</em>.” Anh tiên đoán rằng khi dòng sông Mekong bị nghẽn mạch là khi hàng trăm triệu dân cư thiếu nguồn sống, và họ sẽ trở thành các thế hệ tỵ nạn môi sinh. </p>
<p>Sau sự thành công của tác phẩm <em>Cửu Long </em><em>C</em><em>ạn </em><em>D</em><em>òng, Biển Đông </em><em>D</em><em>ậy </em><em>S</em><em>óng</em>, khi được hỏi điểm nào anh tâm đắc nhứt trong tác phẩm, anh cho biết rằng chương viết về trận hải chiến Hoàng Sa 1974 có một trích dẫn mà vẫn còn nguyên tính thời sự ngày nay. Đó là trích dẫn câu văn của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn: </p>
<p><em>"Một gương sáng lịch sử là mỗi khi thế nước suy hèn vì chia rẽ</em> <em>và nội loạn thì mỗi khi lân bang lấn cõi... Ngày nay vụ Hoàng Sa bị chiếm là triệu chứng cụ thể gây nên bởi sự bất hòa của dân ta... tuy rằng nhiều chứng xưa nay, trong ngoài bảo rằng đó là đất Việt."</em></p>
<p>Sau 7 năm gây tiếng vang với <em>Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng</em><em>, </em>Nhà văn Ngô Thế Vinh xuất bản tác phẩm <em>Mekong - Dòng Sông Nghẽn Mạch </em>(2007). Đây cũng là một tác phẩm mang tính khảo cứu được viết dưới dạng ký sự. Trong tác phẩm <em>Mekong - Dòng Sông Nghẽn Mạch, </em>nhà văn là một người du khảo đi qua Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Cam Bốt (và dĩ nhiên là Việt Nam), anh quan sát tỉ mỉ về địa dư, thiên nhiên, tập quán, những truyện cổ tích, và trình bày nhiều sử liệu quý giá. Dựa vào những quan sát và thực chứng, tác giả dự báo một tương lai ảm đạm của sông Mekong: </p>
<p><em>“Trong một tương lai không xa, con sông Mekong – con sông Danube của Châu Á ấy, sẽ chỉ còn là một con sông chết, chỉ để sản xuất thủy điện, dùng làm thủy lộ giao thông và tệ hại hơn nữa là cống rãnh để đổ xuống các chất phế thải kỹ nghệ từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc.”</em></p>
<p>Dự báo đó, một lần nữa, đã và đang trở thành hiện thực. Bất cứ ai có dịp về thăm miền Tây Nam Bộ sẽ thấy những con sông chết. 'Chết' là vì hầu như tất cả những con sông nhỏ trong vùng trở thành bãi rác khổng lồ cho hóa chất trừ sâu và hậu quả là bị ô nhiễm trầm trọng. Ngày nay, báo chí trong nước đã nhiều lần lên tiếng rằng đó là 'những dòng sông chờ chết'. Thế nhưng người dân lại phải sống với những con sông này! </p>
<p>Những tác phẩm như <em>Vòng Đai Xanh</em>, <em>Cửu Long </em><em>C</em><em>ạn </em><em>D</em><em>òng Biển Đông </em><em>D</em><em>ậy </em><em>S</em><em>óng</em><em>, </em>và <em>Mekong - Dòng Sông Nghẽn Mạch </em>là những yếu tố tri thức làm nên một nhà trí thức. 'Trí thức' ở đây phải hiểu theo khái niệm 'public intellectual', tức là người làm cho xã hội lúc nào cũng thức tỉnh. Họ quan tâm đến và phát biểu những vấn đề ngoài chuyên môn của họ. Noam Chomsky là nhà ngôn ngữ học, Einstein là nhà vật lý học, nhưng họ quan tâm đến các vấn đề chánh trị - xã hội. Trí thức, từ bản chất, không bao giờ lấy lời xu nịnh để bợ đỡ nhà cầm quyền nhằm mưu cầu lợi ích cá nhân. Bản chất của trí thức là hoài nghi lành mạnh, và họ nhìn đâu cũng thấy vấn đề. Họ không hài lòng với hiện tại và lúc nào cũng lo lắng và đưa ra những dự báo về tương lai. Bác sĩ Ngô Thế Vinh là một trí thức như thế, anh là người đi trước thời cuộc và lúc nào cũng làm cho xã hội thức tỉnh trước hiện tình của dòng sông đang nghẽn mạch. </p>
<p><strong>Một tấm lòng cho quê nhà </strong></p>
<p>Như đề cập trên, tôi có cơ duyên quen biết anh từ những 20 năm trước. Vì công việc nên năm nào tôi cũng đi công tác bên Mỹ, và lần nào cũng ghé thăm anh và nhóm bạn Cửu Long. Lần nào cũng có những trò chuyện dài và những ưu tư trước thời cuộc. Có lần chúng tôi ngồi cả nửa ngày trời ở một quán ven biển vùng Los Angeles. Hôm đó chúng tôi trò chuyện rất nhiều chuyện nhân tình thế thái, nhưng cuối cùng thì cũng quay về 'câu chuyện dòng sông' Cửu Long. Vậy đó, những người dân Việt dù sống ở đâu thì vẫn quan tâm đến quê nhà. </p>
<p>Anh là một người nho nhã, lịch sự, nói năng chừng mực. Nhưng đằng sau những biểu hiện đó là một đức tính kiên định và dứt khoát rất... Trung kỳ. Bằng một chất giọng Bắc kỳ có pha một chút Nam kỳ, anh nói năng nhỏ nhẹ, rành mạch, có đầu có đuôi. Chưa bao giờ tôi thấy anh lớn tiếng, dù trong tình huống rất dễ nổi nóng. Nếu có nhấn mạnh điều gì thì anh chỉ lên giọng một chút. Ngay cả những người chỉ trích tác phẩm của anh, những người cho rằng anh là 'cực đoan' trong cách nhìn về sông Cửu Long, anh cũng chỉ im lặng, mà không hề lên tiếng. Hình như ở anh có một triết lý làm việc 'đường ta, ta cứ đi', kiên trì hướng đi mà anh đã định trước: đấu tranh cho dòng sông Mekong. </p>
<p>Trái với những người không thể quên những năm tháng bị vùi dập trong trại cải tạo, tôi chưa hề thấy anh nhắc đến những năm tháng đau khổ đó, có lẽ anh muốn để nó vào một góc nào đó trong ký ức để tập trung nghiên cứu và viết về sông Mekong. Biết tôi quan tâm đến vấn đề chất da cam ở Việt Nam, anh [nói theo ngôn ngữ thời nay] 'bức xúc' kể lại chuyện anh làm thủ tục cho những cựu quân nhân Mỹ đi lãnh trợ cấp do bị phơi nhiễm chất da cam. (Anh làm việc trong một bệnh viện của cựu chiến binh, nên rất am hiểu vấn đề và quy định của Mỹ). Anh lên giọng nói tại sao lính Mỹ họ được hưởng quyền đó, còn hàng triệu người Việt Nam thì không, rồi anh đặt câu hỏi phải làm gì để gióng tiếng nói cho chính phủ Mỹ biết. Nhưng vấn đề này còn liên quan đến khoa học, vốn là một nhược điểm của phía Việt Nam. </p>
<p>Anh là người làm việc không mệt mỏi. Sau khi nghỉ hưu, anh dành thời gian để thu thập thông tin và viết về những văn nghệ sĩ và các nhà khoa học đã bị lãng quên ở trong nước. Kết quả là hai "<em>Tuyển Tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa</em>" (xuất bản năm 2017 và 2022) với sự dồi dào tư liệu mà thế hệ sau sẽ rất cần cho các nghiên cứu về các tác giả như Mặc Đỗ, Như Phong, Võ Phiến, Linh Bảo, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn-Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Nguyên Khai, Cao Xuân Huy, Phùng Nguyễn, Phạm Biểu Tâm và Phạm Hoàng Hộ, Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Hoàng Tiến Bảo, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư & Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, Dohamide (Đỗ Hải Minh), và John Steinbeck. Anh không chỉ phác họa chân dung của các tác giả mà còn đem lại cho độc giả một cái nhìn mới, một hiểu biết mới về họ. Tôi xem đó là những công trình khảo cứu hơn là chân dung văn nghệ sĩ. Những công trình như thế là một đóng góp quan trọng và có ý nghĩa vào công việc lâu dài nhằm gìn giữ những tinh hoa của văn học nghệ thuật miền Nam cho các thế hệ mai sau. </p>
<p>Anh rất quan tâm đến các văn nghệ sĩ trong nước. Trước đây, khi Nhà văn Sơn Nam bị gãy xương, anh liên lạc với bạn học cũ là GS Bác sĩ chấn thương chỉnh hình Võ Thành Phụng (đã qua đời) để hỏi thăm diễn biến bệnh của nhà văn. Khi Giáo sư Võ Tòng Xuân, người mà anh hay gọi là 'Doctor Rice', được điều trị bởi một người bạn cũ ở trong nước, GS Bác sĩ tim mạch Phạm Nguyễn Vinh, anh gởi email hỏi thăm, và đôi khi thảo luận về các biện pháp y khoa phòng ngừa. </p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh5whU856hB5TNOiOKDW95MVIqTJvUCAQ5_tZenFBmPYI-68FDGhpuVdawt1-YKqpCaYSd2LIKS08-7MMlCNS-Y2VK8UAWCAysQKawHrW2visyZ-knJq4ItwMBrLMtR-3vf-fst-6olNHhhzJLqjgC7XmJ4r0w01QLIASj9SzPrVTqvoYe9nI8QZmnlxG8/s719/NVT-NhaVanNguoiLinh-2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="288" data-original-width="719" height="256" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh5whU856hB5TNOiOKDW95MVIqTJvUCAQ5_tZenFBmPYI-68FDGhpuVdawt1-YKqpCaYSd2LIKS08-7MMlCNS-Y2VK8UAWCAysQKawHrW2visyZ-knJq4ItwMBrLMtR-3vf-fst-6olNHhhzJLqjgC7XmJ4r0w01QLIASj9SzPrVTqvoYe9nI8QZmnlxG8/w640-h256/NVT-NhaVanNguoiLinh-2.jpg" width="640" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 2: </em></strong><em>Ngô Thế Vinh và bạn đồng môn GSYK Võ Thành Phụng, chuyên khoa chấn thương chỉnh hình cùng tới thăm tác giả Hương Rừng Cà Mau, sau khi ông bị tai nạn gãy xương đùi, chính BS Võ Thành Phụng là người thực hiện cuộc phẫu thuật chỉnh hình thứ hai cho Bác Sơn Nam. Nhà Văn Sơn Nam cũng là độc giả cuốn CLCD BĐDS từ năm 2000, và Bác có gợi ý nên phổ biến rộng rãi cuốn sách này ở Việt Nam. </em>[Photo by BS Võ Thành Phụng, 8.2006]</p>
<p>Không phải ngẫu nhiên mà anh viết trong bài diễn từ nhân dịp nhận giải Văn Việt rằng: "<em>Là người cầm bút ở Miền Nam trước đây và hải ngoại sau này, sống sót giữa hai thế kỷ, đã trải nghiệm qua hai chế độ cùng những năm tháng tù đày, tôi không thể không chạnh lòng nghĩ tới những văn nghệ sĩ đang phải sống thiếu tự do ở quê nhà. Nhưng rồi tôi vẫn lạc quan để thấy rằng từ trong ngọn lửa đỏ thiêu rụi ấy, vẫn có những con phượng hoàng vực dậy từ tro than, cất cánh bay lên như một Bùi Ngọc Tấn với Chuyện Kể Năm 2000, đem tới cho chúng ta niềm hy vọng</em>." </p>
<p> </p>
<p><strong>NGUYỄN VĂN TUẤN</strong><br />
Sydney, 23.11.2023 <br />
[Ngôn Ngữ Đặc Biệt Tháng 2.2024]</p>
<p><strong> </strong><br /><br />
<em></em></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><em><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEidDFDWzhrJyu6kMaZwaFQgXbdRlw6GcleQIFFllkItNCim7CdgvCFFH1rgMCgUoCSQF7Syk_ZYz-hCAQM0FyQIUXQAydMemVzLag-ON-gA-CxtZrh6nrWmE30qzYJ3wYP1p8KYS2P90MV8hyphenhyphenfFS2_b2WbhIS-XFRjPvNN54YC9AwgpbeuJ97wwbeXswS0/s228/NguyenVanTuan.png" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="228" data-original-width="171" height="228" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEidDFDWzhrJyu6kMaZwaFQgXbdRlw6GcleQIFFllkItNCim7CdgvCFFH1rgMCgUoCSQF7Syk_ZYz-hCAQM0FyQIUXQAydMemVzLag-ON-gA-CxtZrh6nrWmE30qzYJ3wYP1p8KYS2P90MV8hyphenhyphenfFS2_b2WbhIS-XFRjPvNN54YC9AwgpbeuJ97wwbeXswS0/s1600/NguyenVanTuan.png" width="171" /></a></em></div><em><div><em><b>NGUYỄN VĂN TUẤN</b></em></div><div><em><br /></em></div>Tác giả hiện là Giáo sư xuất sắc (Distinguished Professor) về y khoa của Đại học Công nghệ Sydney và Giáo sư kiêm nhiệm (Adjunct Professor) về Dịch tễ học của Đại học New South Wales, Úc. Ông được bầu vào Viện Hàn lâm Y học Úc và Hoàng gia Học viện New South Wales, và được Nữ hoàng</em><em> Elizabeth Đệ Nhị trao Huân chương Australia vì những đóng góp quan trọng cho nghiên cứu y khoa, phòng chống loãng xương và giáo dục đại học. </em><p></p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-76323190024472003462024-01-21T00:00:00.000-08:002024-01-21T00:00:10.899-08:00Youtube: Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch do nhà thơ Lê Hân thực hiện trên Youtube<p><strong>NGÔ THẾ VINH</strong>, Audiobook câu chuyện của dòng sông: <strong>MEKONG DÒNG SÔNG NGHẼN MẠCH</strong>: Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch 2017 phiên bản nguyên vẹn, đã được nhà thơ Lê Hân, Nxb Nhân Ảnh đưa lên YouTube. Xin giới thiệu với các Bạn Đọc.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh-ryvKjs3MK_D9wSIalvnyN2F5Jkwy09gkS_g8ti5rPA8Y_AAlhEIiDARLQvMkPsKhhudoiCuZnBAnoeNeEzDRprdaiSWvrBTGvi4b4QoQGNcgI2HoXy7_XxcWcpbe8rlbShhphbu9cD1FZ6k7Ebdbek7FoeW40eTOVFuf5KAiVkonZPzhrMQv02JkliQ/s424/Youtube_MKDSNM.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="424" data-original-width="411" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh-ryvKjs3MK_D9wSIalvnyN2F5Jkwy09gkS_g8ti5rPA8Y_AAlhEIiDARLQvMkPsKhhudoiCuZnBAnoeNeEzDRprdaiSWvrBTGvi4b4QoQGNcgI2HoXy7_XxcWcpbe8rlbShhphbu9cD1FZ6k7Ebdbek7FoeW40eTOVFuf5KAiVkonZPzhrMQv02JkliQ/w620-h640/Youtube_MKDSNM.jpg" width="620" /></a></div><p>Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch của Ngô Thế Vinh là những trang bút ký sống động với nhiều hình ảnh của tác giả qua những chuyến đi thăm các khúc sông Mekong từ thượng nguồn Vân Nam, Lào, Thái Lan, Cam Bốt xuống tới ĐBSCL Việt Nam: cũng để thấy rằng với những bước khai thác huỷ hoại đã khiến toàn hệ sinh thái của dòng sông đang suy thoái nhanh hơn dự kiến của nhiều người, ngoài chuỗi những con đập thuỷ điện bậc thềm khổng lồ Vân Nam chắn ngang dòng chính Sông Mekong, nay lại thêm dự án 12 con đập dòng chính hạ lưu ở Lào và Cam Bốt với những hậu quả tích luỹ khiến con Sông Mekong, Biển Hồ với Châu thổ Tonlé Sap và ĐBSCL đang chết dần. </p>
<p>MKDSNM audiobook ra mắt lần đầu tiên 2007 là bản rút ngắn, nay 2017 được tái bản là một phiên bản nguyên vẹn với giọng đọc hiếm quý thuần Nam bộ của Ánh Nguyệt, nguyên phóng viên RFI; nhạc đệm của Đoàn Văn nghệ Dân tộc Lạc Hồng, phần hoà âm do Tuấn Thảo phụ trách. Mẫu bìa của Khánh Trường. Kỹ thuật Youtube Lê Hân. Phát hành miễn phí.</p>
<p>Tập 1: <a href="https://www.youtube.com/watch?v=6_COKOfsVYo&t=91s" target="_blank">https://www.youtube.com/watch?v=6_COKOfsVYo&t=91s</a> <br />
Tập 2: <a href="https://www.youtube.com/watch?v=t1fofUx1GWQ&t=180s" target="_blank">https://www.youtube.com/watch?v=t1fofUx1GWQ&t=180s</a> <br />
Tập 3: <a href="https://www.youtube.com/watch?v=WFl3tt5TPYc&t=3135s" target="_blank">https://www.youtube.com/watch?v=WFl3tt5TPYc&t=3135s</a> <br />
Tập 4: <a href="https://www.youtube.com/watch?v=uUTJNQ7AghE&t=63s" target="_blank">https://www.youtube.com/watch?v=uUTJNQ7AghE&t=63s</a> <br />
Tập 5: <a href="https://www.youtube.com/watch?v=EVfWO9EVAcM&t=37s" target="_blank">https://www.youtube.com/watch?v=EVfWO9EVAcM&t=37s</a></p>
<p><strong>Liên Lạc: </strong> <br />
Nxb Nhân Ảnh, Lê Hân: <a href="mailto:han.le3359@gmail.com" target="_blank">han.le3359@gmail.com</a></p>
<p>Việt Ecology Press: P.O. Box 3893, Seal Beach, CA 90740</p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-64149366424480991132024-01-18T19:54:00.000-08:002024-01-18T19:54:05.933-08:00Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch TỪ TÁC GIẢ NGÔ THẾ VINH ĐẾN AUDIOBOOK<p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b>ÁNH NGUYỆT</b></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><b><br /></b></div><div class="separator" style="clear: both; font-weight: bold; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhuOnarD0uaSDEOkAtRmYIs0aeTgbv97woP3qlKv17u13D6Uh6CjEc6RMpGmSml7QIKMfPDxVQrW3F_KkM4P-bUm3cb7R8E6wkjEMncWZ5VKBSvidH4EghREbtKwDpNyEp4qUGQ94KzJe-gK-ON7fjL4HrAO727q4kvh5nnht8MISM2lXla8Woyc49mVxY/s586/AnhNguyet-1.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="232" data-original-width="586" height="254" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhuOnarD0uaSDEOkAtRmYIs0aeTgbv97woP3qlKv17u13D6Uh6CjEc6RMpGmSml7QIKMfPDxVQrW3F_KkM4P-bUm3cb7R8E6wkjEMncWZ5VKBSvidH4EghREbtKwDpNyEp4qUGQ94KzJe-gK-ON7fjL4HrAO727q4kvh5nnht8MISM2lXla8Woyc49mVxY/w640-h254/AnhNguyet-1.JPG" width="640" /></a></div><div class="separator" style="clear: both; font-weight: bold; text-align: center;"><strong><em><br /></em></strong></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><em><b>Hình 1</b></em><em><b>:</b> Buổi ra mắt sách Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch tại Paris 2007, từ trái, phóng viên Ánh Nguyệt, RFI đang giới thiệu sách và audiobook. </em>[tư liệu của Ánh Nguyệt]</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div><p></p>
<p><strong>Ngô</strong><strong> Thế Vinh – Mối thân tình 20 năm</strong></p>
<p> Năm 2000, nhà xuất bản Văn Nghệ (Hoa Kỳ) cho ra mắt người đọc tiểu thuyết dữ kiện Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng (CLCD BĐDS). Lần đầu tiên có một quyển tiểu thuyết đồ sộ về sông Cửu Long và vùng đồng bằng Nam bộ được con sông nuôi dưỡng. Đồ sộ không chỉ ở số trang sách (ngót 650 trang) mà chủ yếu ở công phu tham khảo tài liệu và cả những chuyến đi quan sát tại chỗ của tác giả. Người đọc biết thêm nhiều điều về con sông Cửu Long và vùng đồng bằng trù phú nhất đất nước, về những tai họa mà con sông phải hứng chịu do tham vọng bành trướng của quốc gia thượng nguồn, những thỏa hiệp tiếp tay không kém phần nguy hiểm của những nước trong khu vực con sông đi qua.<span></span></p><a name='more'></a> <p></p>
<p> Ngô Thế Vinh trở thành tên tuổi được báo chí nhắc đến thường xuyên với sự ngưỡng mộ một tác giả có công nghiên cứu một trong những đề tài thời sự quan trọng đầu thế kỷ 21. Ban Việt ngữ RFI đã tìm cách liên lạc với anh. Trong một thời gian dài Ngô Thế Vinh đã giúp chúng tôi như nguồn tư liệu về môi sinh vùng đồng bằng sông Cửu Long bên cạnh các chuyên viên trong và ngoài nước như giáo sư Võ Tòng Xuân (Đại học Cần Thơ - Đại Học An Giang), kỹ sư Phạm Phan Long (Hoa Kỳ), kỹ sư Nguyễn Đức Hiệp (Úc), kỹ sư Nguyễn Hữu Chung (Canada) , v.v.</p>
<p> Ngày 02.02.2002 tôi nhận được email đầu tiên của tác giả Ngô Thế Vinh giải thích về con đập Tam Hiệp ở Trung Quốc và chuỗi đập bậc thềm ở Vân Nam khúc thượng nguồn sông Mekong.</p>
<p> Tôi gặp anh lần đầu năm 2005 khi sang Mỹ họp mặt với các bậc đàn anh giới truyền thông miền Nam trước 1975 và nhiều lần sau khi tôi sang đó thăm gia đình, bè bạn.</p>
<p> Khi đọc tiểu thuyết CLCDBDDS và các bài nghiên cứu trên báo chí, truyền thanh hải ngoại về vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) tôi mường tượng tác giả là một người sôi nổi, trái hẳn với một anh Vinh tôi có dịp gặp mặt, kết thân, có giai đoạn hân hạnh trở thành bạn đồng hành. Ngô Thế Vinh mà tôi quen biết thân tình có hình ảnh một người thầy thuốc giàu kinh nghiệm, nghề chuyên môn của anh. Anh vui vẻ nhưng ít khi nói đùa, anh cẩn trọng khi lên tiếng, nghe nhiều hơn nói và ân cần với người đối thoại. Tuấn Thảo, một đồng nghiệp trẻ tuổi của tôi ở RFI, người cộng tác với anh Vinh sau này khi thực hiện audiobook cũng xem anh “là một ông anh dịu dàng và ân cần”. Nhưng ông anh ấy trở thành khó khăn, rất kỷ luật và cầu toàn khi phải làm việc chung. Tuấn Thảo và tôi đã nhiều lần phải “kêu Trời “vì sự khó tánh này khi phải thu đi thu lại hai ba lần những bài phỏng vấn hiếm hoi của anh cho làn sóng phát thanh của RFI tiếng Việt. Nhưng mối thân tình giữa ba anh em chúng tôi không vì thế mà phai mờ. Khi được lời khen ngợi của anh cho cuốn audiobook Mekông Dòng Sông Nghẽn Mạch (MDSNM) Tuấn Thảo và tôi như mọc cánh.</p>
<p><strong>Chuyển thể quyển ký sự thành audiobook </strong> </p>
<p> Khác với Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng là một tiểu thuyết đầy ắp dữ liệu, ít hư cấu, ký sự Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch xuất bản lần đầu vào tháng ba năm 2007 ghi nhận những chuyến đi thực tế của nhà văn Ngô Thế Vinh tại những quốc gia con sông Mekong đi qua. Tác phẩm chinh phục người đọc với lối viết sống động, đầy hình ảnh của dòng sông với những suy thoái rõ rệt, của những con người ở những vùng đất khác nhau mà cuộc sống gắn liền với sinh mạng con sông và cả cảm xúc đặc biệt của tác giả khi đặt chân tới vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long.</p>
<p> Tôi đã đọc áng văn này hàng chục lần, thuộc lòng thứ tự từng chương sách và nhiều đoạn văn nhất là những phần đề cập đến vùng ĐBSCL. Một vùng trời kỷ niệm của tuổi thơ tôi gắn bó với quê nội và quê ngoại bên bờ sông Hậu và sông Tiền. Vì vậy khi tác giả đề nghị tôi chuyển thể ký sự này thành audiobook tôi đã đồng ý ngay dù rất hồi hộp trước trọng trách. <br />
Cùng với Tuấn Thảo, anh Vinh và tôi lên ngay kế hoạch thực hiện. Anh Vinh cung ứng trang thiết bị. Tuấn Thảo lên chương trình thu âm, chọn nhạc và âm thanh minh họa (bruitage). Tôi được giao đọc cả quyển ký sự vì tác giả muốn có một audiobook về vùng ĐBSCL với giọng đọc miền Nam không pha trộn của tôi, một di sản mà tôi gìn giữ từ những ngày là xướng ngôn viên đài phát thanh Sài Gòn trước năm 1975. Anh Vinh cũng được sự đồng ý của Đoàn Văn Nghệ Dân Tộc Lạc Hồng (ở Mỹ) cho sử dụng các tác phẩm âm nhạc của Đoàn trong audiobook. Cả ba chúng tôi thỏa thuận hoàn tất audiobook trong sáu tháng nhưng do tính cầu toàn của anh Vinh lẫn cậu em Tuấn Thảo và nhiều trục trặc khách quan khác rốt cuộc phải gần một năm trời audiobook Mekông Dòng Sông Nghẽn Mạch mới ra đời, đồng thời với lần tái bản thứ nhất của quyển ký sự vào cuối năm 2007.</p>
<p align="center">*</p>
<p><strong></strong></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgw4tAbUBd6_aAEq-0a7VGhVLJhvKYy_k51a3RyjqhRbuemAPENq9OO9_Zkeq6ElA8BUUm3KRDCrnWhCs07IuczoP6LyBEOjVO1z7D1PX1TbNFExX9G4EFPMlNiM3alsoMAce67FD1b0WlGDJk_QtNBV_R8QJAq2IxhCG8vGm9mLi8FTaElYLwyT6vZJhg/s508/AnhNguyet-2.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="265" data-original-width="508" height="334" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgw4tAbUBd6_aAEq-0a7VGhVLJhvKYy_k51a3RyjqhRbuemAPENq9OO9_Zkeq6ElA8BUUm3KRDCrnWhCs07IuczoP6LyBEOjVO1z7D1PX1TbNFExX9G4EFPMlNiM3alsoMAce67FD1b0WlGDJk_QtNBV_R8QJAq2IxhCG8vGm9mLi8FTaElYLwyT6vZJhg/w640-h334/AnhNguyet-2.JPG" width="640" /></a></strong></div><p></p><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 2 :</em></strong><em> Buổi ra mắt sách MKDSNM tại Paris 2007, từ trái, phóng viên Ánh Nguyệt, người diễn đọc toàn bộ tác phẩm MKDSNM với giọng đọc thuần Nam Bộ; phải, phóng viên Tuấn Thảo, RFI phụ trách phần hoà âm và nhạc nền cùng với tiếng động minh hoạ; nhà báo Từ Nguyên người điều hợp chương trình buổi giới thiệu sách và audiobook. </em>[tư liệu của Ánh Nguyệt]</p>
<p>Ai cũng biết thành công cốt lõi của một audiobook là phần âm thanh. Nội dung lôi cuốn của quyển sách in trên giấy cần phải được diễn đọc một cách tự nhiên, truyền đạt được tâm tình của người viết. Ký sự Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch ghi chép bốn cuộc du khảo qua những khúc đoạn khác nhau của con sông Mekông từ thượng nguồn Vân Nam, qua Lào, qua Cam Bốt tới vùng ĐBSCL. Mỗi chương là những trang viết đầy cảm xúc từ háo hức, tò mò đến xót xa, đồng cảm, hy vọng và chờ đợi. Và từng đoạn văn đòi hỏi một lối đọc thích ứng. Riêng phần kết của quyển sách với tiểu tựa Câu chuyện của dòng sông đòi hỏi phải vận dụng hầu như các loại diễn cảm kể cả cảm xúc riêng tư của người đọc. Đây là đoạn tôi yêu thích nhất trong audiobook. </p>
<p> Một chi tiết khác trong quá trình thực hiện “quyển sách nói”: tôi đã nhờ các đồng nghiệp người Lào và Cam Bốt trong đài RFI chỉ dẫn cách phát âm theo địa phương cho đúng các danh từ và địa danh ghi trong ký sự.</p>
<p> Phải nhìn nhận sự góp sức lớn lao, tận tình cộng với tài hoa của Tuấn Thảo trong audiobook này. Tuấn Thảo với kiến thức âm nhạc đặc biệt và lối thẩm âm trời cho đã thực hiện phần chọn lọc nhạc nền, tiếng động minh họa và sau cùng là phần hoà âm một cách hoàn hảo nhất. Tôi chỉ phụ giúp một phần nhỏ trong việc lồng âm thanh do được Tuấn Thảo cầm tay chỉ việc.</p>
<p><strong></strong></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEguw6VgFyMMM2pq0qWDMgTtss4fuS4Km2wS1OfOmr_aqWMtDS6lXux6h_frzDTCiInQYWhQaSDikOGlFW2dZx0MajH3NMQ6z7wIIDPMtZZLNisl-ZmfrgJ-MeOPdbiO_dS15pGFRDrgxkBMZ8pTsjAbJ5tJFE3vE2jxwjLnTWZ7IwdEHOmqbIHQLqBwRvE/s752/AnhNguyet-3.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="659" data-original-width="752" height="350" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEguw6VgFyMMM2pq0qWDMgTtss4fuS4Km2wS1OfOmr_aqWMtDS6lXux6h_frzDTCiInQYWhQaSDikOGlFW2dZx0MajH3NMQ6z7wIIDPMtZZLNisl-ZmfrgJ-MeOPdbiO_dS15pGFRDrgxkBMZ8pTsjAbJ5tJFE3vE2jxwjLnTWZ7IwdEHOmqbIHQLqBwRvE/w400-h350/AnhNguyet-3.JPG" width="400" /></a></strong></div><p></p><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 3 :</em></strong><em> Ánh Nguyệt và Tuấn Thảo, hai chị em gặp nhau cùng mừng rỡ vừa đi xong một chặng đường ngót một năm, làm việc ngoài giờ để hoàn tất cuốn audiobook từ tác phẩm ký sự Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch của Ngô Thế Vinh. </em>[tư liệu của Ánh Nguyệt]</p>
<p style="text-align: center;">Háo hức, kiên nhẫn, từng bước một, tôi đã thực hiện được mong ước của chúng tôi .</p>
<p> Vì đang làm công việc chính hằng ngày ở đài RFI, Tuấn Thảo và tôi chỉ có thể thực hiện audiobook vào buổi tối. Hai chị em trao đổi với nhau từng đoạn âm thanh đã hình thành, cùng nhận xét về kết quả làm việc để chấn chỉnh, thậm chí làm lại hẳn phần việc không chất lượng. Anh Vinh cũng theo dõi từ xa từng bước công việc để hỗ trợ chúng tôi khi cần thiết. Chưa bao giờ mối liên lạc giữa bộ ba chúng tôi lại mật thiết đến như vậy! Ròng rã gần một năm làm việc căng thẳng cuối cùng audiobook đã hình thành trong niềm vui sướng của chính tôi, thực hiện được mơ ước tiếp tay với anh Vinh quảng bá ký sự Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch với một đối tượng người đọc mới.</p>
<p> Trong một email riêng tư gần đây gởi anh Ngô Thế Vinh tôi đã viết: “Audiobook Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch là kỷ niệm rất đẹp, là quãng đời khó quên.</p>
<p>…Audiobook này phải được gọi là quyển sách của ban đêm vì nó được hình thành vào thời gian tĩnh lặng nhất của một ngày khi bên ngoài căn phòng làm việc chỉ có thể có âm thanh duy nhất là tiếng gió và ánh sáng duy nhất là ngọn đèn đường. Biết bao là giây phút hạnh phúc khi hoàn thành xong một đoạn hay một chương sách và cũng biết bao thất vọng hay bực dọc vì không được một kết quả như ý. Bao nhiêu nước chảy qua cầu…</p>
<p> Nhớ lại ngày tháng cũ để thấy mình được đời ưu đãi. Được làm công việc mình yêu thích, được hợp tác với người mình quý mến, được sống trọn vẹn với cảm xúc. Còn mong gì hơn nữa! Xin cảm ơn anh, anh Vinh”.</p>
<p><strong>ÁNH NGUYỆT </strong><br />
<strong>Paris, tháng giêng 2024</strong><br />
<strong>[</strong><strong>Ngôn</strong><strong> Ngữ Đặc Biệt Tháng 2.2024]</strong></p>
<p><strong><em>ÁNH NGUYỆT</em></strong><br />
<strong></strong></p>
<p><em></em></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><em><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjIrWRRNgq3Oycx3xcnxTvMs-uS30BwerBhsNAsuK61TACQZZx3TLaq8U-ZeHySKESq_assSI1pokS2ntF0mKrenSNjspXL2UDode7n8Le9EWLMEH-eqqZk8q-EwOwlBPdZwt2Q_wrmxTEEcBMohbVQMUcnAimSIgDFNEd7aqafiDKHAdpdMFgwmnWCfo8/s445/AnhNguyet-4.JPG" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="415" data-original-width="445" height="298" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjIrWRRNgq3Oycx3xcnxTvMs-uS30BwerBhsNAsuK61TACQZZx3TLaq8U-ZeHySKESq_assSI1pokS2ntF0mKrenSNjspXL2UDode7n8Le9EWLMEH-eqqZk8q-EwOwlBPdZwt2Q_wrmxTEEcBMohbVQMUcnAimSIgDFNEd7aqafiDKHAdpdMFgwmnWCfo8/s320/AnhNguyet-4.JPG" width="320" /></a></em></div><em>Sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn, Trung học Trưng Vương, Đại học Luật khoa, xướng ngôn viên Đài Phát Thanh Sài Gòn, tập sự Luật sư. Sau 1975, không được hành nghề chuyên môn, làm phóng viên báo Tin Sáng cho tới khi báo bị đóng cửa 1981. Định cư tại Pháp, tiếp tục công việc báo chí ban Việt Ngữ đài RFI (Radio France Internationale). Trong hai mươi năm công tác tại đài phụ trách chương trình Môi Sinh và Cộng Đồng. Năm 2007, cùng Tuấn Thảo, người bạn đồng nghiệp trẻ tuổi thực hiện audiobook </em>Mekong – Dòng Sông Nghẽn Mạch<em> của tác giả Ngô Thế Vinh.</em>
<p></p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-54994913453577780772024-01-15T20:19:00.000-08:002024-01-15T23:36:52.856-08:00Tình Thương còn lại<p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;">Trang Châu</div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjqDNTNXKKIJwLLNp-TQc9fPWniIJ5sP83_Z5xdCyOltP2NIHhdB9o8Alynhh3GHChFj9_Py51HLZ_cEmWwH6KxXrfusk8Kd6wZL3Bgp0ADU-3JHF2TErn4OHkSvJiDrGSwUZt4WAl7ZC45TRxr31mOFusahgOxjwcnU_DXixGgSpqu7oQrZGBxNrqI8TA/s818/TrangChau-1.JPG" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="385" data-original-width="818" height="302" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjqDNTNXKKIJwLLNp-TQc9fPWniIJ5sP83_Z5xdCyOltP2NIHhdB9o8Alynhh3GHChFj9_Py51HLZ_cEmWwH6KxXrfusk8Kd6wZL3Bgp0ADU-3JHF2TErn4OHkSvJiDrGSwUZt4WAl7ZC45TRxr31mOFusahgOxjwcnU_DXixGgSpqu7oQrZGBxNrqI8TA/w640-h302/TrangChau-1.JPG" width="640" /></a></div><p></p><p style="text-align: center;"><em>Nguyệt San Tình Thương do Sinh Viên Y Khoa Chủ Trương: từ trái, <strong>Số báo đầu tiên</strong>, Số 18 với chủ đề <strong>Thanh Niên Hướng Về Nông Thôn</strong>, Số 24 Đặc Biệt về Đại Hàn với chủ đề <strong>Chiến Tranh và Hoà Bình</strong>. </em></p>
<p style="text-align: center;"> *</p>
<p> Xin nói ngay để tránh hiểu lầm. Tình Thương đây là tên tờ nguyệt san của sinh viên y khoa Sàigòn của những năm từ 1963 đến 1966. Còn lại là nêu tên vài cây bút từng viết cho tờ báo, một thời gây sóng gió này, hiện còn sống và tiếp tục viết. Sau 60 năm, nhân sự từng gắn bó với Tình Thương cũng hao hụt đi nhiều: Phạm Đình Vy - chủ nhiệm, Nguyễn Vĩnh Đức - chủ bút đầu tiên, Nghiêm Sỹ Tuấn, Bùi Thế Hoành, Trần Đoàn, Trần Xuân Dũng đã bỏ cuộc chơi. Còn lại Hà Ngọc Thuần ở Úc vẫn thấy hiện diện trên diễn đàn Sinh Viên Quân Y. Còn Liza Lê Thành Ý, Nguyễn Thanh Bình ở Montréal. Thỉnh thoảng vẫn thấy Liza trình bày bìa cho Tập San Y Sĩ Canada (TSYSC), còn Nguyễn Thanh Bình thì đều đặn ôm mục Tin Tức Mình cho TSYSC. Tiếp tục viết, gởi bài đăng báo, in sách, xem ra chỉ còn tôi và Ngô Thế Vinh.<span></span></p><a name='more'></a><p></p>
<p> Nhưng trong khi tôi, lúc thơ, lúc văn với đủ thứ đề tài, thì Ngô Thế Vinh, qua các tác phẩm, trước cũng như sau 1975, trước sau như một, vẫn là ‘’con chim báo bão, đi trước thời gian về một số biến cố bi thảm của dân tộc’’. Ngô Thế Vinh lúc nào cũng quan niệm: <a id="_Hlk154797756" name="_Hlk154797756">‘’</a>Người cầm bút, nếu không được là tiên tri, thì họ cũng phải là sức cản cắt xé những giấc mơ Việt Nam’’. Mặt khác, Ngô Thế Vinh luôn xác nhận: ‘’Chất thời sự và thực tế hiện diện rất nhiều trong các tiểu thuyết của tôi’’. Ngô Thế Vinh sống ở hiện tại nhưng luôn nhìn lại quá khứ, nhìn để lo lắng cho tương lai đất nước: ‘’Một tương lai không xa, Việt Nam, sau tấn thảm kịch tiền đồn của thế giới tự do, nay mai lại sắp được vinh danh là tiền đồn thứ hai để ngăn ngừa chủ nghĩa bành trướng của Trung Cộng.’’</p>
<p> Nói về tờ nguyệt san Tình Thương, Ngô Thế Vinh xác nhận nhân sự cộng tác với tờ báo có nhiều khuynh hướng khác nhau, đôi khi còn đối nghịch nhau nữa. Nguyễn Vĩnh Đức và Ngô Thế Vinh năng nổ trong sinh hoạt sinh viên. Phạm Đình Vy say sưa bàn chính trị. Hà Ngọc Thuần, Nghiêm Sỹ Tuấn cần cù trong nghiên cứu, dịch thuật. Đỗ Hữu Tước tập tễnh viết truyện ngắn. Còn tôi thì làm thơ, hầu hết là thơ tình. Cái loại thơ ngăn ngắn, pha chút tinh nghịch, đôi khi ngụy biện. Đại loại như:</p>
<p><em>- Nếu em muốn làm ngăn cách/ Cần gì phải một con đường/</em><em>Hay một dòng sông/</em><em>Cần gì phải một chấn song/</em><em>Hay một bức thành/</em><em>Em chỉ cần gõ cửa tim anh/</em><em>Gọi tên một người.</em><em>.</em><em>. rất lạ.</em></p>
<p><em>- Nếu anh không được phép nhìn/</em><em>Một người đàn bà nào khác hơn em/ Làm sao anh thấy em là người đẹp nhất?</em></p>
<p> Coi vậy mà loại thơ này có kết quả tốt, nó đem lại cho tờ báo một số độc giả trẻ trung: Các nữ sinh trung học Trưng Vương và Gia Long. Tôi được giao nhiệm vụ giữ mục thơ cho tờ báo.</p>
<p> Thế nhưng có một lần tôi không làm thơ mà viết văn, một bài tranh luận gay gắt. Số là có một tay viết trẻ, không phải sinh viên y khoa, sinh hoạt trong nhóm chương trình mùa hè thì phải, có bài đăng trên Tình Thương. Anh này coi tướng trẻ Nguyễn Cao Kỳ là thần tượng, một Nasser của Việt Nam. Anh viết bài công kích các tướng khác, xếp họ vào loại già, nên về hưu, nhường chỗ cho lớp tướng trẻ lãnh đạo đất nước. Tôi tức mình viết bài <em>Tướng Trẻ</em><em>,</em><em> Tướng Già</em> phản pháo lại bài viết kia. Bài viết có người trong ban điều hành không đồng ý sợ gây thêm chia rẽ. Thế nhưng Ngô Thế Vinh xác quyết chủ trương ‘’sinh hoạt dân chủ và đoàn kết trong tinh thần tự trị đại học của tập thể sinh viên y khoa” nên bài <em>Tướng Trẻ,</em><em>Tướng Già</em> của tôi vẫn được đăng trên Tình Thương. Phía chống đối nghĩ tôi viết bài đó để bênh vực ông cụ tôi, thuộc loại tướng già. Về sau, có thêm dư luận cho rằng tôi công kích tướng Kỳ vì bị ông vớt mất người đẹp chiêu đãi viên hàng không Air Việt Nam mà tôi mới quen biết!</p>
<p> Cuối năm 1965 tôi ra trường, coi như hết có mặt thường xuyên ở tòa soạn Tình Thương. Đầu năm 1966, tôi tình nguyện về phục vụ đơn vị quân y Dù. Ngô Thế Vinh lúc ấy còn là sinh viên, dưới tôi hai lớp. Vào giữa năm 1966 Huế dao động vì vụ Phật giáo đấu tranh và ở Sàigòn sinh viên xuống đường liên miên. Tiểu đoàn Dù mà tôi đang là y sĩ trưởng, bị neo giữ ở lại Tam Quan, Bồng Sơn ngót 3 tháng trời. Nằm trên một ngọn đồi nóng cháy đến bốc khói từ những khối đá, mở máy thu thanh ra là nghe oang oang tin sinh viên bãi khóa, xuống đường, tôi nổi điên, cay cú viết bài thơ <em>Xin Một Ngày</em> gởi về cho anh em ở tòa soạn Tình Thương.</p>
<p> - Mày nói anh em/ Ngưng một ngày đấu tranh/ Xin các thầy/ Đêm nay rằm/ Đình chỉ xuống đường/</p>
<p> Xin các Cha/ Sáng mai Chúa Nhật/ Đừng căng biểu ngữ/ </p>
<p> ...</p>
<p><em>-</em><em>Mày nói mọi người/</em><em>Hãy lừa dối tao/</em><em>Đừng cho tao hay sự thật/ Tao sẽ chết đi/</em><em>Nếu không đào ngũ/</em></p>
<p> Tôi không rõ chủ bút Ngô Thế Vinh lúc đó có tham gia vào cuộc đấu tranh của sinh viên hay không, nếu có, ở mức độ nào. Riêng với chủ nhiệm Phạm Đình Vy tôi tin là có, tôi biết anh tích cực đứng về phía Phật giáo. Nhưng chỉ vài năm sau, ra trường, chọn phục vụ Lực Lượng Đặc Biệt, Ngô Thế Vinh lại sống cảnh bực bội tôi đã từng sống trước đây, nhưng ở một vị thế khác: trực tiếp chống sinh viên biểu tình. Anh không muốn thấy đơn vị tuyến đầu của mình “như một bầy thú hoang về thành, lạc lõng bơ vơ. Phải tập làm quen với mặt nạ, lưỡi lê, phương pháp cắt xén những cuộc biểu tình”.</p>
<p> Nhưng, tuy “bực bội vì những xáo trộn ở Sàigòn”, Ngô Thế Vinh vẫn có cái nhìn cảm thông về các cuộc xuống đường của sinh viên: “Không phải hoàn toàn vô lý khi họ bỏ cả sự học, hy sinh cả tương lai để dấn thân vào những cuộc đấu tranh”. Dưới mắt Ngô Thế Vinh, sinh viên hoạt động chính trị là vì họ “quan tâm đến vấn đề xã hội, mơ ước phấn đấu cho công bằng xã hội”.</p>
<p> Trong truyện ngắn <em>Mặt Trận Ở Sàigòn</em>, Ngô Thế Vinh có nhắc đến hội quán Phượng Hoàng ở Pleiku. Tôi có mặt ở hội quán đó một tối, sau mấy ngày theo tiểu đoàn Dù hành quân vùng thung lũng Ia Drang, lội giữa lòng con suối Ia Puk mà có đoạn nước chảy xiết như thác. Con suối, nước trong vắt, nhưng khi giày saut ngấm nước, các kẽ chân nổi ngứa và lở loét sau đó. Cuộc hành quân này là cuộc hành quân duy nhất đơn vị tôi không chạm địch, nhưng bị tê liệt sau đó một thời gian với cả trăm trường hợp bị sốt rét. Cái đêm tôi có mặt ở hội quán Phượng Hoàng lưu lại ở lòng tôi một kỷ niệm. Đêm đó đám quân nhân Dù chiếm hơn phân nửa số khách tham dự. Ồn ào nhưng khôn g có phá phách. Chỉ có sàn nhảy, đó đây, lấm vết bùn do đế những đôi giày saut để lại. Đêm đó tôi không sống tâm trạng khủng hoảng tâm thần như nhân vật của Ngô Thế Vinh trong truyện: “Làm sao quên đi những ám ảnh của sợ hãi và nỗi chết. Cái hình ảnh kinh hoàng của chiến địa, hôi thối nồng nặc, chồng chất những tử thi hai bên.”</p>
<p> Ở hội quán Phượng Hoàng, ngồi cạnh tôi đêm đó là một vũ nữ, dáng dấp trẻ trung. Nhìn bảng tên của tôi, bất ngờ nàng hỏi:</p>
<p> - Bác sĩ Châu có phải là Trang Châu báo Tình Thương không?</p>
<p> Tôi ngạc nhiên gật đầu.</p>
<p> - Em có đọc thơ của bác sĩ.</p>
<p> Tối hôm đó, với chiếc Jeep của một đồng nghiệp ở quân y viện ưu ái dành cho sử dụng, tôi lái xe đưa cô vũ nữ đi tìm khách sạn để qua đêm với nhau. Nhưng cả 3 khách sạn đều từ chối, nói hết chỗ. Quá 2 giờ sáng, tôi đành đưa cô về nhà cô, một ngôi nhà đông người ở. Tôi qua đêm một mình trên tấm phản nhỏ. Lạ một điều, mỗi lần nhớ tới kỷ niệm với cô vũ nữ tôi cảm thấy vui. Như nó thể hiện một niềm an ủi, một thứ ân tình hậu phương hiếm hoi làm ấm lòng người tiền tuyến.</p>
<p> Như những y sĩ tình nguyện khác chọn phục vụ những đơn vị luôn ở tuyến đầu, Ngô Thế Vinh không muốn làm người hùng, anh chỉ khiêm tốn “làm bổn phận của một y sĩ tiền tuyến”. Khoác áo lính nhưng Ngô Thế Vinh “không viết đời sống quân ngũ đơn thuần”. Anh coi đời sống quân ngũ như “một hoàn cảnh, chỉ là cái cớ giúp tôi có cái toàn cảnh của những vấn đề phức tạp hơn”.</p>
<p> Ngô Thế Vinh cũng có lúc chán nản, cũng có lúc tự hỏi: “Cầm súng bảo vệ cái gì đây?”. Bảo vệ “một thứ xã hội trên cao lộng lẫy, sáng choang và thản nhiên hạnh phúc?”. Chiến đấu cho “đám kêu gọi chiến tranh, nhưng lúc nào cũng ở trên và đứng ngoài cuộc chiến?”. Đúng như nhà văn Đoàn Nhã Văn nhận xét: “Nhìn lại hậu phương ông (NTV) thất vọng. Hậu phương là một nơi chốn để trở về, để giải khuây sau những ám ảnh của bom đạn và nỗi chết.”</p>
<p> Tác phẩm của Ngô Thế Vinh luôn được giới phê bình niềm nở đón nhận và khen ngợi. Mỗi truyện của Ngô Thế Vinh là một cái nhìn về đất nước (Bùi Khiết). Viết được coi như một cái nghiệp. Ngô Thế Vinh viết với sự kiểm soát lý trí, do vậy nếu có gì quá mức cũng do hoàn cảnh tạo nên, chứ nhà văn không muốn vậy (Tạ Tỵ). Ngô Thế Vinh, nhà văn của những ước mơ, hay nói rõ hơn, nhà văn của lương tâm (Nguyễn Xuân Hoàng). Ngô Thế Vinh luôn nhìn về phía trước. Từ những dòng chữ, người đọc thấy lấp lánh một tấm lòng. Bao nhiêu năm qua, trước sau, nhà-văn-thời-cuộc vẫn oằn vai với những giấc mộng con (Đoàn Nhã Văn). Từ Vòng Đai Xanh (1969) đến Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng (2000) nhà văn Ngô Thế Vinh đã đặt ra những vấn đề hết sức lớn lao, liên hệ mật thiết đến vận mệnh của dân tộc, chẳng những đối với chúng ta ngay bây giờ mà cho cả thế hệ mai sau (Nhật Tiến). Nếu nói nhà văn đích thực là người rung động với những biến cố của đời sống, dự báo cho tương lai thì Ngô Thế Vinh là nhà văn đúng nghĩa (Ánh Nguyệt). Người luôn luôn mang trong đời những giấc mơ. Đi tìm giải đáp cho những vấn đề khó khăn nan giải, luôn luôn ray rứt. Một hiện tượng của một người cầm bút dấn thân (Nguyễn Mạnh Trinh). </p>
<p> Dấn thân. Muốn làm cách mạng cho đất nước hãy làm cách mạng bản thân mình trước. Tôi tin Ngô Thế Vinh nghĩ như vậy, dù biết trước con đường trước mặt lắm chông gai. “Ở đâu có chỗ trú ẩn an toàn cho người cầm bút. Một nhà văn khi chọn một thái độ, ở hoàn cảnh nào đó, là một thử thách. Và có để cho bị ảnh hưởng hay không là do nơi khí phách của nhà văn.”</p>
<p> Không cùng lớp nhưng Ngô Thế Vinh và tôi cùng gặp nhau ở nguyệt san Tình Thương. Không gặp nhau ở tuyến đầu nhưng Ngô Thế Vinh và tôi gặp nhau, kẻ trước người sau, ở Dinh Độc Lập để nhận giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật, bộ môn Văn, về những gì hai đứa đã ghi nhận nơi núi thẳm, rừng sâu.</p>
<p> Ngô Thế Vinh luôn đi tìm sự thật để viết ra sự thật, dù có ẩn giấu dưới hình thức nào, lúc nào cũng là sự thật, ít nhất là sự thật dưới cái nhìn trong sáng và thành tâm của anh. Ngô Thế Vinh muốn góp phần làm tốt xã hội Việt Nam. Theo nhà văn Émile Zola: “Một xã hội chỉ vững mạnh khi xã hội đó đưa sự thật ra dưới ánh sáng chan hòa của mặt trời.”*</p>
<p><strong>TRANG CHÂU</strong><br />
<strong>11/2023</strong><br />
<strong>Ngôn</strong><strong> Ngữ Đặc Biệt Tháng 2-2024 </strong></p>
<p>----------------------------------------------------------</p>
<p><em>* Une société n’est forte que lorsqu’elle met la vérité sous la grande lumière du soleil. </em>(Émile Zola)</p>
<p><strong><em>TRANG</em></strong><strong><em> CHÂU</em></strong></p>
<p><em></em></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><em><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhbSk8QP5QzBXNPzrVv3dhv89pp6j2UTe3oXHpTZK2x19q588SvNENlHFxJkyK25F__yyLzUNvZOth2yTF5DK2HLdnbKqrSiuVc9vxLvHXXb4wxPWCgU1Aqjq7MLa_vjIkLRbWlpokTarNNO1zAsicEfIfCpmgVy5CvBUZm6oWijaqAGfsDnsEV9Cpe7Sk/s464/TrangChau-2.JPG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="464" data-original-width="309" height="312" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhbSk8QP5QzBXNPzrVv3dhv89pp6j2UTe3oXHpTZK2x19q588SvNENlHFxJkyK25F__yyLzUNvZOth2yTF5DK2HLdnbKqrSiuVc9vxLvHXXb4wxPWCgU1Aqjq7MLa_vjIkLRbWlpokTarNNO1zAsicEfIfCpmgVy5CvBUZm6oWijaqAGfsDnsEV9Cpe7Sk/w208-h312/TrangChau-2.JPG" width="208" /></a></em></div><em>Nhà văn, nhà thơ Trang Châu, tên thật Lê Văn Châu, sinh năm 1938 tại Huế. Tốt nghiệp Y khoa Sài Gòn 1965, cựu quân y sĩ Dù, cựu chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại. Tác phẩm đã xuất bản: Tình một thuở (thơ, 1964), Y sĩ tiền tuyến (bút ký, giải thưởng văn học nghệ thuật 1969, tái bản lần thứ 10, 2021), Thơ Trang Châu (1989), Về biển Đông (bút ký, 1995), Dì Thu (tập truyện, 2000, tái bản lần thứ 2, 2013), Thơ tuyển (2007), Người ăn trưa trong xe (tập truyện, 2013), Mười hai truyện ngắn Mười hai bài thơ (2017).</em><p></p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-13057508101444970352024-01-12T17:51:00.000-08:002024-01-12T17:51:51.141-08:00Nhà văn Ngô Thế Vinh<p style="text-align: center;">Nguyễn Vy Khanh</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjH1ksRSWFvxnbGmsGt1dcmQ4BkByY-MKWihOPi1vYBwtirl5hzTsPyTSp80VknGbX-MpnZ7oceMn_Xwmg_UVYmPsvWI7O5HVfSW6YSoyHdpok5OcORzsjeon5ydnM5y52JChgZfVZUzh7iur4yVgD2_CkmJCiQT9eh_-cXPWY-qLcJiCb3wXDR8qre7G8/s432/NguyenVyKhanh-1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="312" data-original-width="432" height="289" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjH1ksRSWFvxnbGmsGt1dcmQ4BkByY-MKWihOPi1vYBwtirl5hzTsPyTSp80VknGbX-MpnZ7oceMn_Xwmg_UVYmPsvWI7O5HVfSW6YSoyHdpok5OcORzsjeon5ydnM5y52JChgZfVZUzh7iur4yVgD2_CkmJCiQT9eh_-cXPWY-qLcJiCb3wXDR8qre7G8/w400-h289/NguyenVyKhanh-1.jpg" width="400" /></a></div><p>Ngô Thế Vinh sinh năm 1941 tại Thanh Hóa, một trong những cây bút chủ-lực của <strong>tờ<em> Tình Thương</em>, “nguyệt san tranh đấu văn-hóa xã-hội do sinh viên Y Khoa chủ trương”(số ra mắt tháng 1-1964 và số cuối 30, tháng 6-1966) mà ông là tổng thư ký từ số 9 (1964) rồi chủ bút cho đến số cuối. Ông t</strong>ốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn năm 1968, n<strong>hập ngũ 1969, làm y-sĩ trưởng Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù.<span></span></strong></p><a name='more'></a><p></p>
<p><strong>T</strong><strong>hời Văn-học miền Nam</strong> </p>
<p><strong>Tác phẩm của ông đã xuất bản vào thời văn học miền Nam 1954-1975 gồm </strong><em>Mây Bão </em>(Sông Mã, 1963), <em>Bóng Đêm</em> (Khai Trí, 1964), <em>Gió Mùa</em> (“<strong>tiểu thuyết” ghi trên bìa, “truyện dài” trang trong; </strong>Sông Mã, 1965), <em>Vòng Đai Xanh</em> (Thái Độ, 1970), tất cả đều viết về chiến tranh. [<em>Đêm Lục Địa</em> loan báo xuất bản năm 1966 nhưng chúng tôi không tìm thấy thư tịch đã xuất bản].</p>
<p> Từ tiểu thuyết đầu tay <em>Mây Bão</em> xuất-bản cuối năm 1963, tác giả đã dự báo những trận giông bão phũ phàng trên quê hương. <em>Bóng Đêm</em> khẳng định ý chí chống cộng quyết liệt của tác giả cùng tâm trạng băn khoăn, hoang mang của lớp trẻ đôi mươi, “những người đang tới”. Đến <em>Vòng Đai Xanh</em> viết khi ông làm y sĩ trưởng một liên đoàn Biệt Cách Dù, là một chiến tranh tàn bạo khác trong cuộc chiến quốc-cộng: chiến tranh của đồng bào thiểu số vùng cao. <strong></strong></p>
<p> Ngay từ <strong><em>Mây Bão</em></strong>, tiểu thuyết đầu tay xuất bản khi ông mới 22 tuổi, tác giả đã như muốn báo trước những trận giông bão phũ phàng trên quê hương cả hơn thập niên sau đó, qua tâm sự của Vũ, một người còn trẻ đã tự vấn lương tâm và trách nhiệm của mình trước những xáo trộn của xã-hội. Cuộc sống người sinh viên Y-khoa nội trú, ở bệnh-viện là những “ca” mổ, những cứu cấp hiểm nghèo, nhưng ngoài kia, thành phố cũng đầy biến động của một thời chính-trị và đấu tranh liên tục quấy rối đời-sống và tâm thức người Việt. Truyện bắt đầu với khung cảnh một cuộc “đảo chánh” mở đầu cho một chuỗi biến cố dài sau đó: </p>
<p><em>“... Vũ hé cửa bước ra ngoài, trong biến động không khí nhà thương vẫn bình thản và bận rộn. Trong phòng trực, mấy cô y tá, y công, mọi người xúm quanh chiếc radio transitor nhỏ xíu, hồi hộp theo dõi tin tức đảo chánh. Tiếng nói như ngạt mũi lẫn với những nhiễu âm không nghe thấy gì. Vũ đứng yên giữa phòng quan sát, mọi người không ai để ý đến sự có mặt của chàng, như thế càng hay, Vũ nghĩ thế. Căn phòng y tá trực nhỏ nhắn sạch sẽ, cách trang trí ấm cúng với bàn tay người đàn bà khiến chàng có cảm giác thật yên tĩnh và dịu dàng. Vũ thấy như bao giờ, mỗi khi chàng phải sống với những ý nghĩ khắc khổ, trước những khó khăn và nghịch cảnh, sự hiện diện của người đàn bà dù chưa quen biết vẫn đem lại cho chàng những cảm xúc êm dịu và nhẹ nhàng.</em></p>
<p><em>Ngoài tiếng bàn tán và tiếng cười khúc khích của đám người xúm quanh chiếc radio, Vũ thấy tất cả còn lại là sự yên tĩnh. Chiếc quạt trần cũ quay chầm chậm với những tiếng kẽo kẹt đều đặn như nhịp đưa võng. Chàng nghĩ tới nhà thương như một nơi bất khả xâm phạm của các tai họa chiến tranh. Nhưng trong đầu óc chàng lại tưởng tượng ra cảnh tàn phá của bom đạn, sự sụp đổ điêu tàn nơi đây. Chàng thấy các bệnh nhân mệt lả rên xiết trong bộ áo trắng, lồm cồm bò giữa đống gạch vữa như những con bọ trắng ngầy ngụa trong một đống rác. Vũ hơi rùng mình, đồng thời chàng thấy đời mình có thể hy sinh trọn vẹn cho những nơi như đây, cho những con người bất hạnh của chiến tranh và bệnh tật cần được chăm sóc. Một ý nghĩ tương phản hiện tới, Vũ tự hỏi không biết chính chàng đang mong muốn gì, chàng có đang thực sự theo đuổi cái mình tha thiết mong muốn hay không? Trước những biến chuyển như hôm nay, sự xáo trộn lại tới để xâu xé đời sống chàng.</em></p>
<p><em>Vũ rời nhà thương với bao ý nghĩ vô định. Ra đến Nhà hát lớn, cảnh phố xá vắng ngắt, nền gạch trắng rộng trống trải và thẳng tắp. Bất chợt, một tràng đạn xé tai không biết từ đâu tới, một thân xác người từ gác hai rơi xuống như một bị cát. Dưới gốc cây lớn, một người lính chết ngồi co ro cạnh khẩu súng, vũng máu đã đông và đen lại, mặt mũi xanh ngắt và xám xỉn. Phía xa một chiếc xe Jeep chạy ngược chiều phóng tới người như bay, một chiếc khác nữa ló ra: họ vừa quần đuổi nhau trước Nhà hát lớn vừa nhả đạn. Vũ lánh vội vào một quán hàng ngay đó. Chàng thấy rõ trên xe một người ngã gục về phía trước trong vòng tay một đồng đội. Trên tầng gác cao, mấy bóng người nhỏ nhắn di động, tuôn từng tràng đạn xuống đường xoẹt lửa, bẻ gẫy mấy cành cây, lá bay rụng lả tả. Khi hai chiếc xe Jeep biến mất dạng, Vũ đi nép theo các hàng hiên và tiến ra phía chợ. Bóng người lưa thưa còn đi lại khiến chàng hơi vững dạ. Trên một chiếc xe ba bánh chở hai thường dân máu me đầy mình và bả vai, máu vẫn ra xối xả trong lúc người phu xe gò mình cố đạp mà Vũ thấy hai bánh trước vẫn như quay rất chậm và bình thản. Đến giữa trưa Vũ trở về Đại học xá. Dọc đường các cửa hiệu đóng cửa, trước nhà từng nhóm người đứng bàn tán, phỏng đoán. Đường phố có cái vắng vẻ là lạ như mấy ngày trước Tết, ai nấy đều ở lại nhà để sửa soạn trang hoàng nhà cửa bên trong. Cổng chính của cư xá khóa hẳn, cửa bên cũng đóng và có người canh gác. Bữa cơm thay đổi trông thấy, chỉ vỏn vẹn một bát canh tôm khô trong vắt, một đĩa tôm khô kho mặn và muối vừng. Hôm nay Vũ thấy lạ miệng và đói nên ăn rất nhiều cơm</em>...”. </p>
<p> Sau những biến động của cuộc đời, sau những mối tình và những hoàn cảnh trái ngang và thay đổi của bạn bè và chính mình, Vũ vẫn còn Huyền và con. Nhắc lại chuyện cũ làm Vũ phải khẳng định<em>: “</em><em>Chuyện đó chắc em đã biết cả, anh chả cần nhắc tới. Riêng đối với anh tình yêu lúc này đồng nghĩa với bổn phận, những bồng bột mơ mộng thời trai trẻ mới lớn đã qua rồi. Anh thấy cần thiết là một điểm tựa cân bằng và vững chãi. Cho đến hôm nay anh trở về với hai bàn tay không, những năm sống đem lại được gì nếu không ngoài những kinh nghiệm cay đắng. Anh thấy lúc này vẫn như là bắt đầu, ước vọng tuổi trẻ lại dồn về với mọi đam mê. Anh và các bạn đang mong làm một cái gì, anh hy vọng tin tưởng và cố gắng thu xếp... Huyền chỉ có em giúp được anh nhiều trong ước vọng đó”.</em></p>
<p> Và sau bao mây bão, Huyền,<em> “</em><em>Nàng lại nhớ đến cánh tay để trần của mình hôm gặp Vũ lần đầu tiên trong nhà thương, ánh mắt Vũ nhìn say đắm khiến nàng cảm thấy lạnh rờn rợn trên làn da, cũng như nàng vừa có ý nghĩ căn nhà ấm cúng bỗng trở thành hoang vắng khi người đàn ông ra đi. Huyền thấy rằng sự có mặt của Vũ với đời sống mẹ con nàng là cần thiết. </em></p>
<p><em>Cửa Thượng Tứ đứng lừng lững phía xa, chiếc cầu xi măng cong cong, con đường nhựa đen nhãy cũng uốn tròn một nét mềm mại mất hút. Vào cuối mùa hạ sắp sang tiết thu, hương sen ở dưới hồ tỏa lên thơm ngát. Hai người bước đi yên lặng, đứa bé ngủ gục trên vai Huyền, chỉ còn nghe tiếng gót giày khô vang vang. </em></p>
<p><em>Trong bóng tối, ánh trăng sáng mờ chỉ đủ thấy rõ những bông sen trắng nở xòe ra giữa những chiếc lá tròn to và đen sẫm. Cố lắng tai nghe Vũ chỉ phân biệt được tiếng dế rên rỉ đều đều, tiếng ếch nhái táp miệng cắt quãng phía trong xa, không khí đã vắng lặng còn thêm vẻ u tịch, bức tường thành xám đen cao lừng lững chạy dài. Trong đám cây xanh um, căn nhà ở quen thuộc lấp ló trên đó. Vào khỏi cửa thành, qua một khúc rẽ, bước theo những bậc thang đất khấp khểnh là tới nhà. </em></p>
<p><em>Huyền bật đèn, đặt nhẹ con xuống chiếc giường riêng cho đứa bé. Đêm đó hai người nói chuyện đến thật khuya. Sau bao tháng ngày chờ đợi, tất cả những nao nức khát khao, tối hôm đó cả hai cùng có dịp thổ lộ. Ái tình trở lại, cả hai cùng tìm thấy ở nhau những giây phút thân yêu đầm ấm. Những đám mây ảm đạm rẽ ra để lộ một khoảng trời xanh, chưa bao giờ Huyền thấy một màu xanh đẹp thế, màu ngọc thạch. Nàng tưởng tượng nếu ánh mắt con mình xanh như thế thì đẹp biết bao. Huyền liên tưởng tới nguồn gốc pha trộn của mình, nghĩ đến con tự nhiên nàng thấy sung sướng và kiêu hãnh. </em></p>
<p><em>Hơi ấm của Vũ thấm dần qua thân thể và cánh tay nàng. Huyền rướn người lên nằm sát trong vòng tay Vũ với cảm giác yếu ớt và bé bỏng, đầy thương yêu rộn ràng. Huyền ước ao có thêm được một đứa con gái. Nàng cảm động định bảo chồng: “Anh ạ, trong những phút sung sướng quá người ta chỉ muốn khóc.” Chỉ ý nghĩ đó không thôi đủ làm Huyền dâng dâng nghẹn ngào, không sao cất lên được một câu nói”.</em></p>
<p><strong><em>Bóng Đêm</em></strong> theo quảng cáo là “<em>Truyện của những người không xa tuổi 20 - Với tâm trạng đau xót hoang mang của lớp người đang tới – Truyện làm chứng cho một giai đoạn sống thực</em>”, đã khẳng định ý chí chống cộng quyết liệt của tác giả qua nhân vật Tòng (dù dám đánh cảnh sát và nhân viên ấp chiến lược) và Vũ, nhân-vật chính, "<em>Vũ căm tức trước lớp cha anh hèn nhát hủ bại, chán chê cái nguồn gốc, chán chê quê-hương, thản nhiên từ bỏ tất cả để đi tìm nơi bình an vui sống</em>". Nhưng cũng qua nhân vật Vũ, người tuổi trẻ rơi vào hoài nghi, bế tắc cũng là cái thế của nhiều thanh niên lớn lên tại miền Nam không có kinh nghiệm với cộng sản: "<em>Thế liệu chúng ta làm được gì! Cái bi đát của đời sống chúng ta không phải là chỗ có mang mối thất vọng lớn lao hay không về một thế hệ đàn anh đi trước mà chính bởi chỗ chúng ta có còn giữ được chút tin tưởng nào không ở một hoàn cảnh xã hội tồi tệ đến mức này, hay chính những người tuổi trẻ cũng lại tự thấy lạc lõng bơ vơ giữa đông đảo của thế hệ mình với sẵn trong lòng mối hoài nghi thường trực về tất cả</em>". Bên cạnh đó, tác-giả khẳng định ý chí dấn thân qua nhân vật Đỗ vừa ở bệnh viện ra, thay vì trốn tránh, đã sớm trình diện đi lính: “<em>Đỗ tình-nguyện nhập ngũ. Trước hôm đi, Đỗ có tới nói với Trúc:</em></p>
<p><em>– Đừng có tưởng rằng tôi đã từ bỏ nề nếp suy nghĩ trước kia để ngoan-ngoãn trở về thứ luân-lý của các bà sơ. Tôi không nghĩ thế. Sự đứng dậy và ra đi chỉ có ý nghĩa một tính toán khôn-ngoan. Thời-gian nằm bó ở nhà thương cho tôi thấy rằng mình phải trở dậy không thể nằm để chứng-kiến sự mọt ruỗng của thân-thể chính mình và chết dí ở đây được nữa.</em></p>
<p><em>Trúc nghĩ tới thời-gian nửa năm cho tới ngày Đỗ bình-phục hẳn, Đỗ đã ngoan-ngoãn kiêng giữ trong suốt thời-gian trị bệnh ngoài cả sự mong ước của người khác. Khỏi rồi, khóa động-viên cũng vừa đúng lứa tuổi của Đỗ; bình thường Đỗ có thể trốn-tránh dễ-dãi không đi nhưng chính Đỗ đã trình-diện thật sớm. Khi nhảy vào quân đội thì Đỗ tập hăng say và tự đặt cho mình một ước mơ làm tướng. Tốt-nghiệp trường sĩ-quan, đậu cao, lẽ ra hắn được quyền lựa chọn; hắn xin nhập ngay vào bộ binh và đi theo một cuộc hành-quân đầu tiên. Chưa kịp gặp một đụng độ, chiếc xe Jeep chở hắn về bộ chỉ huy đã đụng mìn và chuyến đó Đỗ bị cưa bàn tay phải. Trúc hiểu rằng với Đỗ, chuyện mơ làm tướng cũng chả có một ý nghĩa cao xa gì, nó không khác với dự-định vượt qua biên-giới hồi trước. </em><em>Chẳng qua không biết làm gì hắn tự đặt cho mình một cái đích – dù thế nào – để có phương hướng đi tới</em>". </p>
<p> Cái bi đát của những người trẻ tuổi, họ chỉ "<em>thấy lạc lõng bơ vơ giữa đông đảo thế hệ mình với sẵn trong lòng một mối hoài nghi thường trực tất cả</em>". Cuối cùng là tự cứu, một giải pháp rất cá nhân: "<em>nếu có ai tự nhận tìm được đời-sống thăng bằng nào giữa một thời cuộc xao xuyến này là bởi biết xoay lưng lại với tất cả, tự dễ dàng bằng lòng với giải pháp cá nhân của mình và tin rằng với thái độ khôn ngoan đó cá nhân tìm thấy đầy đủ hạnh-phúc</em>". Tâm trạng băn khoăn, hoang mang của lớp trẻ đôi mươi, “những người đang tới” – đã khác với <em>Những Người Đang Tới </em>thời Đỗ Thúc Vịnh mới trước đó.</p>
<p><strong><em>Gió Mùa</em></strong><strong> </strong>thổi vào văn chương của Ngô Thế Vinh với chương mở đầu: <em>“Buổi sáng lạnh. </em><em>Tom mặc áo len ngắn. Một vòng da hở nơi rẽ vai, hắn có đeo súng. Phúc đã gặp hắn ở Phan Rang trong những tháng trước. Tom tốt nghiệp đại học, sang Việt Nam sống lam lũ với nông dân. Hắn nói thạo tiếng Việt và mang tên Ninh.</em></p>
<p><em>- Anh ra đây từ đầu vụ lụt?</em></p>
<p><em>- Không, mười lăm ngày sau.</em></p>
<p><em>Phúc hỏi Tom về những chiếc quạt gió lúc này ra sao sau những trận mưa lớn. Tom bảo tất cả vẫn y nguyên, phải cái đồng ruộng ngập nước dân cũng chẳng cần đến quạt gió nữa.</em></p>
<p><em>Cánh đồng trải dài đến chân núi đá. Từng đàn dê lổ lang trên đó, một chú dê đực cắt hình trên nền trời từ một mỏm đá thật cao</em><em>.</em><em> Biển xanh phẳng lặng phía xa, rải rác những cánh quạt gió chuyển động chậm, kéo nước biển lên những ruộng muối đọng trắng. Nhớ lại hôm gặp Tom, Phúc hỏi:</em></p>
<p><em>- Anh không giận chứ. Vụ chúng tôi quyết định đi riêng không có anh. Trong bước đầu chúng tôi không muốn có sự ngộ nhận của người dân và nhất là không để cán bộ Cộng sản tại đó có lý do xuyên tạc</em><em>.</em></p>
<p><em>Tom cười thông cảm, bàn tay to thô nắm lấy vai Phúc:</em></p>
<p><em>- Tôi hiểu ngay khi anh nói câu đầu tiên. Ở đây lâu năm, thực tâm muốn sống hòa mình nhưng tôi vẫn thấy lạc lõng…”</em> (tr. 11-12).</p>
<p> Câu chuyện thời chiến tranh, có người Mỹ, có người Chiêm, người Việt và những nỗi đau nồi da xáo thịt, những đấu khẩu và tranh luận: “… <em>Người đàn ông không muốn nghe cháu cũng chẳng muốn bênh con; lưỡng lự chưa biết phải nói sao, mặt buồn bã, mắt đỏ ngầu như chó dại sắp chết, ông trách mắng nó giọng bâng quơ:</em></p>
<p><em>– Ai khiến mày bỏ làng lên núi làm chi; lâu lâu lại mò về mà nhiễu. Mày gãy một chân, thằng Ba con tao gãy một chân; anh em không dưng lôi nhau ra mà bắn. Mồ mả cha tụi bay có động mô mà đến họa rứa. Thôi may mà tính mạng hai đứa cũng chưa sao, tao biểu mày nghe tao, khỏi rồi thì tao bảo lãnh cho mà về sống ở làng làm ăn chứ cứ lên núi rồi vô bưng, đói khát cực như con chó.</em></p>
<p><em>Đứa con trai nằm đó không giấu được giận dữ, mặt cau có.</em></p>
<p><em>Vẻ mỏi mệt đến trơ lì trên khuôn mặt người đàn ông làm biến mất những xúc động đau đớn lúc đó. Ông nghĩ đến thời gian đứa cháu tuyên bố bỏ làng ra đi làm ăn xa cách đây hai năm. Ít lâu sau hắn trở về, dân làng thì thào hắn được gửi đi học tập trên núi. Bị lộ, hắn lại đi. Ban đêm về làng với mấy đứa khác, mò mẫm kiếm ăn ngang nhiên như trên đất nó. Họ hàng thương tình không ai nỡ báo, nó tưởng người ta sợ được thể nó làm tới. Nó quá lắm Thanh niên Chiến đấu mới tính chuyện bủa vây. Câu chuyện đưa tới thằng Ba gãy một chân, đứa cháu nằm đây với chân kia cũng gãy nốt. Không dưng anh em thù hận nhau. Người đàn ông nghĩ tới một bất hạnh đến vô phúc cho dòng họ mình. Những cẳng chân gãy của lũ con cháu khiến ông nghĩ tới sự gãy đổ của cả một gia tộc, mà với ông gia tộc là hình ảnh trọn vẹn của quê hương đất nước. </em></p>
<p><em>Trong những lúc không còn hy vọng, ông lại tự an ủi vu vơ bằng lịch sử bốn ngàn năm bằng những hào quang quá khứ mà ông chỉ được nghe chứ không thấy. Bấu víu đó không vững ông lại có những ý nghĩ buông xuôi rằng đất nước này cũng có một số kiếp với cái hồi báo oán của nó. Mảnh đất ông đang sống hiển nhiên chẳng phải là quê hương ông mà là của dân Chiêm. Và ông cảm thấy có trọng tội trước trời đất trong việc tiêu diệt họ. Cha ăn mặn con khát nước. Ông nghĩ thế. Công khai phá và cũng là tội ác của ông cha, tang chứng còn kia, những tháp Chàm vương sót đổ nát. Đôi lúc ông có ý nghĩ là phải phá nó đi; tình cảm ông như kẻ phạm tội muốn kín nhẹm, thủ tiêu dấu vết của tội ác. Nhưng không ai hiểu được cái thâm sâu của ý ông. Với dấu vết vẫn còn đó, vài người Chàm rải rác phía chân núi trong xa. Tất cả là những ám ảnh, ông muốn đập tan hủy diệt hết. Tàn bạo trong trường hợp này chỉ nói lên sự sợ hãi”.</em></p>
<p><strong><em>Vòng Đai Xanh</em></strong> (Giải Văn-học VNCH năm 1971) viết khi ông làm y sĩ trưởng của một liên đoàn Biệt Cách Dù, là một chiến tranh tàn bạo khác trong cuộc chiến quốc-cộng: chiến tranh của đồng bào thiểu số vùng Cao nguyên. Thường trực đối đầu với người Kinh lúc nào cũng muốn đồng hóa họ, người Thượng sẽ bị nhiều quyền lực thực dân Pháp rồi Mỹ lợi dụng như con cờ chiến tranh của họ. Khi lập vòng đai xanh, các thế lực ngoại bang này đã vô tình khiến cho các dân tộc thiểu số gây ra những xung đột. Lính Mũ Xanh rút, Dân sự Chiến đấu Thượng sẽ bị người Mỹ bỏ rơi. Núi đồi Cao nguyên là một chiến trường bi thảm xét về khía cạnh con người. Đầu truyện ông đã tiên tri "<em>Ở một thời kỳ mà người Mỹ đã bước qua giai đoạn cố vấn ai cũng hiểu rằng đây là một cuộc chiến tranh của họ. Một cuộc chiến được nuôi dưỡng và giải quyết theo quan điểm quyền lợi của nước Mỹ</em>" (bản 2009, tr. 19). </p>
<p> Cuối truyện:<em> “Theo lời kể của trung sĩ da đen Wynne thuộc tiểu bang Texas, một chiến sĩ Mũ Xanh kỳ cựu đặt chân từ ngày đầu tiên tới đây thì trái với quan niệm thông thường của nhiều người cho rằng trại chỉ có giá trị của một căn cứ quân sự kiên cố và vững chãi để ngăn chận bước xâm nhập của địch quân qua ngả biên giới. - Sự thực công việc của chúng tôi mang nặng tính cách chánh trị. Đó là chiến dịch chinh phục cảm tình và lôi kéo dân chúng đứng vào hàng ngũ chánh phủ. Nói xong trung sĩ Wynne vừa cười vừa cúi xuống ôm xốc trên tay hôn một đứa bé gái Thượng bẩn thỉu lem luốc. - Dân làng không muốn thấy chúng tôi ra đi nhưng tiếc thay đó lại là quyết định của thượng cấp và là nỗi mong đợi của chánh phủ Sài Gòn... “How sad to be a montagnard!”. Wynne cũng đã ngậm ngùi thốt ra như thế. (…).</em></p>
<p><em>Cũng trong buổi lễ, tôi gặp lại tay nhà báo tài tử sinh viên độ nào. Anh đã ra trường, không còn làm báo và hiện là y sĩ trưởng của một C thuộc binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Anh bảo đùa sự lựa chọn của anh có lẽ do bởi mối nhân duyên sẵn có với người Thượng, nhưng tôi hiểu rằng với một người nhiều lý tưởng như anh sự lựa chọn này có ý nghĩa một dấn thân cho cái điều mà thời sinh viên anh đã từng nhiệt tình cổ võ.</em></p>
<p><em>"Bổn phận của tôi bây giờ là lo tiếp thu và đảm trách vấn đề y tế của toàn thể các trại DSCĐ. Tuy nhiên nói chung sự tiếp vận và yểm trợ còn lệ thuộc nặng nề ở người Mỹ."</em></p>
<p><em>Thật chẳng thể ngờ rằng những vấn đề tưởng như mâu thuẫn trọng đại ngày hôm qua bỗng chốc biến dạng và chẳng còn một chút ý nghĩa nào nữa. Khi được hỏi về những lý do nào đưa tới sự ổn định cao nguyên hôm nay, anh trầm tĩnh - điều này là một biến đổi tôi mới nhận thấy nơi anh, đưa ra một nhận xét không thiếu sắc bén:</em></p><p><em>"Trước khi đạt tới một thỏa hiệp như hôm nay, kinh nghiệm của những năm qua giúp họ - họ đây là người Mỹ, hiểu rằng nhúng tay vào những âm mưu dấy loạn như vậy chỉ gây tai tiếng vô ích mà không cải thiện thêm được chút nào vị thế của họ hơn hiện giờ. Và điều quan trọng hơn nữa là cả người Thượng và Kinh, sau mấy lần đổ máu đều hiểu thấm thía rằng bởi trong cái mối tương quan môi hở răng lạnh, họ chỉ còn một cách là xích lại gần nhau hợp tác để xây dựng một cộng đồng quốc gia Việt Nam mới."</em></p>
<p><em>Dù đã có dấu hiệu của một vài chuyển động tốt, tôi cũng đã không quá lạc quan như anh, và có lẽ quả đúng như Y Ksor nói là xa hơn một ly rượu tới môi cái viễn ảnh tốt đẹp của vùng Đất Hứa Cao Nguyên còn phải trải qua nhiều máu</em><em>,</em><em> mồ hôi và nước mắt”. </em>(2009, tr. 197-199)<em>.</em></p>
<p style="text-align: center;"> *</p>
<p> Truyện ngắn “Mặt Trận Ở Sài-Gòn” đăng trên tạp-chí <em>Trình Bầy </em>số 34 (18-12-1971), nổi tiếng từng khiến ông phải ra tòa (cùng nhà báo Thuận Giao, ngày 18-5-1972, án phạt 100.000 đồng, vạ treo) với tội danh "làm lũng đoạn tinh thần quân đội và làm lợi cho cộng sản", với cái nhìn sắc bén và khác tiếng nói chính thức - là hành trình ý thức của một người lính chấp nhận cuộc hy sinh gian khổ hiện tại, đồng thời có những ước mơ về một xã hội tốt đẹp hơn trong tương lai (“<em>Người lính chỉ ao ước được cầm súng chiến đấu cho tổ quốc,</em> <em>hy sinh cho một lý tưởng cao cả, một chính nghĩa sáng ngời”</em>) khi phải đối đầu với một "<em>đám người kêu gào chiến tranh nhưng lúc nào cũng ở trên và đứng ngoài cuộc chiến ấy</em>" yên hàn ở thủ đô. Người lính ở tiền tuyến trở về thành phố do đó buồn và bất mãn vì cảnh tượng trái ngược của hai mặt trận, một bên gian khổ đòi hỏi hy sinh kể cả chết chóc và mặt trận Sài-Gòn công khai đàng điếm ăn chơi, nơi đầy kẻ giàu trên xương máu của người hy sinh ở chiến tuyến. Đó là mặt trận Sài-Gòn thanh bình, bảo vệ cho “<em>một con thuyền xa hoa ngao du trên dòng sông loang máu, nổi trôi đầy những xác chết đồng loại</em>". Người lính nhận ra rằng chiến trường khó khăn cho họ không phải ở ngoài biên cương mà ở ngay hậu phương thối nát đầy bất công; tức giận vì mình đã hy sinh gian khổ để bảo vệ an sinh cho đám người đó, có người lính đã tức mình lao đầu trong những ăn chơi vội tạm. Người kể chuyện cho biết: “<em>Riêng tôi thì hiểu rằng, chính ông bác sĩ đang ở một trường hợp lương tâm khó xử. Một đằng là những người lính mà ông có bổn phận phải chăm sóc, một đằng là những thanh niên sinh viên đang tham dự cuộc đấu tranh, mà quan điểm của họ được chính ông có phần chấp nhận và chia sẻ. Rõ ràng chúng tôi chỉ là một bánh xe nhỏ trong một guồng máy lớn lao. (…) Nhân danh quân đội, chúng tôi đang góp sức thực hiện một cuộc cải cách xã hội hay tự biến mình thành một nút-chặn-lịch-sử, một thứ đèn đỏ thường xuyên ngăn những bước tất yếu của cuộc cách mạng đi tới?</em></p>
<p><em>Người lính chỉ ao ước được cầm súng chiến đấu cho tổ quốc, hy sinh cho một lý tưởng cao cả, một chính nghĩa sáng ngời - mà khỏi cần phải bận tâm suy nghĩ điều gì. Nhưng bây giờ thì họ hiểu rằng, đã thất lạc và qua rồi sự bằng an giả tạo sau những mỏi mệt trở về từ rừng rú. Rằng ngoài chiến trường súng đạn quen thuộc, họ còn phải đương đầu với một trận tuyến khác mỏi mệt hơn - đó là cảnh thối nát bất công của xã hội mà dân tộc đang phải hứng chịu trong tối tăm tủi nhục. Từ ba mươi năm nay, đã và đang có quá nhiều anh-hùng-của-chiến-tranh trong khi lại quá thiếu vắng những chiến sĩ xã hội. Vậy phải lựa chọn chiến trường nào? Rằng không phải chỉ ở chốn xa xôi biên cương - mà đích thực chiến-trường thách-đố của họ phải là ở Sài Gòn</em><em>” </em>(bản 2012, tr. 22, 25).</p>
<p style="text-align: center;"> *</p>
<p> Giai đoạn hai của thời văn học miền Nam 1954-1975 được xem như khởi động đầu năm 1964 khi sinh hoạt chính-trị xáo trộn với đảo chính, chỉnh lý. Xã-hội thì bất ổn: các phe nhóm tôn giáo và sinh viên gây rối loạn nhưng cùng lúc đa nguyên văn hóa và văn chương, báo chí nở rộ. Riêng văn-học chiến tranh dần rõ nét với các nhà văn thơ trẻ có thể xem như thế hệ hai mà riêng năm 1964 đã đánh dấu sự xuất bản tác-phẩm đầu tay của Dương Nghiễm Mậu (<em>Cũng Đành, Gia Tài Người Mẹ</em>), Duy Thanh (<em>Lớp Gió</em>), Tuấn Huy (<em>Ngày Vui Qua Mau</em>), Nguyễn Thị Hoàng (<em>Vòng Tay Học Trò</em>), Thế Nguyên (<em>Hồi Chuông Tắt Lửa</em>), Thế Uyên (<em>Những Hạt Cát</em>), Lưu Nghi (<em>Đêm Trăng Mùa Hạ</em>), Ngô Thế Vinh (<em>Mây Bão</em> cuối 1963, và <em>Bóng Đêm</em> 1964), …</p>
<p> Khuynh hướng <strong>văn chương dấn thân</strong> trội bật, từ ý thức đến xã-hội, chính trị, văn học. Khởi từ đây, những tạp chí <em>Đất Nước, Đối Diện, Trình Bầy, Hành Trình, Thái Độ, Giữ Thơm Quê Mẹ,</em>... đối đầu với chính trị và chiến tranh, mở một "chiến trường" chính trị và xã hội hơn, dấn thân sâu hơn và đa phần nghiêng về một phía, tả. </p>
<p> Trong cuộc chiến vừa qua, sống ở bên này hay bên kia thì người dân vẫn đã không thực sự có tự do lựa chọn. Nhưng có thể có thái độ dấn thân khi đã chấp nhận định mệnh (chiến-tranh như một định mệnh), một chấp nhận rất hiện sinh mà cũng trung-thực không kém. Phản kháng trong khuôn định mệnh, tác-phẩm lấy bối cảnh cuộc chiến nóng bỏng đang diễn ra, đang tàn phá; nhưng Ngô Thế Vinh và một số nhà văn như Thảo Trường, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, v.v... đã bị chụp mũ làm nhụt lòng chiến sĩ hoặc làm mất miền Nam, trong khi họ nhập cuộc cầm súng bảo vệ miền Nam. Dĩ nhiên, họ là người dứt khoát của bên này chiến tuyến chứ không phải nằm vùng hoặc là người của bên kia - như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Sơn Nam, Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục, Bảo Cự, Mường Mán, Trần Vàng Sao, ... là những người viết theo nghị quyết hoặc chỉ thị, làm công-cụ cho Mặt Trận Giải Phóng tức là Hà Nội! Như vậy, không thể xếp những nhà văn mặc áo lính nói trên vào số văn nghệ sĩ phản chiến được. Không thể tổng quát hóa cho rằng họ đã tiêu cực phản chiến làm mất miền Nam. <em>Phản chiến</em> đúng ra là một nhãn hiệu chỉ có thể áp dụng cho những nhóm thanh niên hoặc trí thức ở Hoa Kỳ hoặc Âu châu chống chiến-tranh Việt Nam; trong khi đó, các nhà văn nói trên đã nhập cuộc. Nói rằng họ nói lên cái <em>ý chí phản kháng</em> thì đúng hơn! </p>
<p> Dòng văn học “phản chiến” nói chung và phần nào đã là những phẫn uất của trí thức nhưng không tiếng nói, những người dấn thân chính trị nhưng không có đất đứng. Xã hội điêu tàn, giá trị văn hóa đảo lộn, người miền Nam nạn nhân của chiến-tranh nhưng kêu gọi tình huynh-đệ và (vô tình) đòi giải quyết chiến-tranh và chuẩn bị hòa-bình. Về phía chính quyền và các cơ quan văn-hóa <em>miền Nam thì nhắm mục-đích thông tin và tác chiến tinh thần hơn là tuyên truyền! Văn chương chống cộng trở nên quen thuộc, mất dần thị hiếu trên thị trường chữ nghĩa, trong khi đó văn học </em><em>“</em><em>hiện sinh</em><em>”</em><em>, </em><em>“</em><em>tiểu thuyết mới</em><em>”</em><em> với bao phụ tùng khác ngày càng bành trướng.</em> </p>
<p> Một số văn nghệ sĩ dấn thân và phản chiến được người đọc theo dõi. Dấn thân có Thảo Trường, Phan Nhật Nam, Y Uyên, Nguyên Vũ, Ngô Thế Vinh, Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Phan Nhật Nam, Cung Tích Biền, ...; phản chiến có Thế Nguyên, Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục, Bảo Cự, Mường Mán, Trần Vàng Sao, ... về sau rõ ra là nằm vùng hoặc thân Cộng! <em>D</em><em>ấn thân</em> từ thời-thượng hoặc cấp tiến chân thành của trí thức thiên tả đã đưa đất nước vào ngõ cụt với chiến tranh và đối đầu Quốc-Cộng! Trong số, Ngô Thế Vinh là nhà văn có những tác phẩm đặc biệt trội bật so với những nhà văn khác cùng khuynh hướng. </p>
<p><strong>Thời hải ngoại</strong> </p>
<p> Sau biến cố tháng Tư năm 1975, Ngô Thế Vinh bị ba năm tù “cải tạo” tại các trại Suối Máu, Trảng Lớn, Đồng Ban, Bù Gia Mập. Tới Mỹ năm 1983, 5 năm sau làm bác sĩ nội trú rồi thường trú tại các bệnh viện ở New York và cuối cùng ở miền Nam California. </p>
<p> Thời hải ngoại, sinh hoạt văn nghệ của nhà văn chủ yếu viết ký sự ngoài việc tái bản và/ hoặc chuyển ngữ các tác phẩm trước 1975 (<em>The Green Belt</em>. Raleigh, N.C.: Ivy House, 2004; 2021); cũng như xuất bản <em>Mặt Trận Ở Sài Gòn</em> (Văn Nghệ, 1996; <em>The Battle of Saigon. </em>Xlibris, 2005), năm 2020 tái bản song ngữ Anh-Việt do Văn Học Press & Việt Ecology Press) gồm những truyện ngắn trước và sau 1975, như một góp phần trong cuộc “thảo luận” về cuộc chiến vừa qua. Đặc biệt ông gây chú ý của thức giả hải ngoại khi cho ra cuốn <em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Ðông Dậy Sóng</em> (Văn Nghệ, 2000; bản tiếng Anh: <em>The Nine Dragons Drained Dry, The East Sea In Turmoil</em>, Việt Ecology Press, 2016). Quá khứ văn nghệ cũng thôi thúc đưa đến việc ông viết và xuất bản hai tập bút ký <em>Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa </em>(I và II; Viet Ecology Press, 2017 và 2022) cũng như chủ biên tuyển tập <em>Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn, Người Đi Tìm Mùa Xuân</em> (Tập san Y Sĩ Việt Nam; Viet Ecology Press, 2019). </p>
<p> Thời trước 1975, Ngô Thế Vinh đã hơn một lần đưa những vấn đề con người và thổ nhưỡng Cao nguyên ra dư luận qua cuộc nổi dậy của người thiểu số FULRO, thì sau này ở ngoài nước, ông đặt vấn đề và trình cho dư luận khắp nơi vấn nạn của con sông Mékong đối với môi trường và những con người ở nhiều nước sinh sống nhờ vào nguồn nước này. <em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng</em> là một “dữ kiện tiểu-thuyết” dài trang về những vấn nạn cho con người và thiên nhiên ở vùng Đông Nam Á trong đó Việt-Nam và Biển Đông sẽ phải chịu những hậu quả khôn lường. Ông viết trong Lời Dẫn Nhập: “… <em>Tìm ra được tọa độ khởi nguồn của con sông nhưng rồi cũng để đau lòng chứng kiến từng bước suy thoái của </em>con sông lịch sử, con sông thời gian<em> và đang có nguy cơ trở thành </em>con sông cuối cùng<em> ấy. Cuốn sách này viết về những năm tháng cuối cùng của con sông Mekong. Cũng với ước mong rằng Ngày N+ của con sông định mệnh ấy sẽ là một thời điểm rất xa, ít ra là không nằm trong Thiên Niên Kỷ Thứ Ba này.</em></p>
<p><em>Cuốn sách không phải là một công trình nghiên cứu theo cái nghĩa kinh điển mà được viết dưới dạng tiểu thuyết gồm 23 chương, không có truyện như những tình huống khúc mắc chỉ có những khung cảnh nên mỗi chương có thể đọc như truyện ngắn với con sông Mekong luôn luôn là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Nhưng đây cũng không thuần túy là một cuốn “</em>tiểu thuyết/ fiction<em>” được hiểu như là sản phẩm của tưởng tượng nhưng là dạng “</em>dữ kiện tiểu thuyết – faction: facts & fiction<em>”, với một số ít nhân vật như những hình tượng văn học và phần dự phóng là hư cấu để cùng với người đọc đi tới những vùng đất, nơi có con sông Mekong hùng vĩ chảy qua, cũng là </em>con sông thời gian<em> soi bóng những bình minh và hoàng hôn của các nền văn minh, cả mang theo máu và nước mắt của các cuộc chiến tranh qua những thế kỷ - một con sông lớn đầy ắp tính lịch sử và vô cùng phong phú về tính địa dư nhân văn. Không phải bằng đôi mắt chim mà bằng tầm nhìn vệ tinh để choáng váng thấy hết toàn cảnh </em>tấn thảm kịch sông Mekong với bao nhiêu là tai ương mà phần lớn do chính con người gây ra.</p>
<p><em>Nếu như cuốn sách chuyên chở được một số nét khái quát và cập nhật về con sông Mekong, </em>tạo được sự chú ý của người đọc<em> tới sinh mệnh của một dòng sông lớn thứ 12 trên thế giới thì đó chính là mong ước của người viết …” </em>(2000, tr. 14-15).</p>
<p> Tác giả đã gọi tập hợp 23 chương <em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng </em>là “dữ kiện tiểu-thuyết”. Chúng tôi thiển nghĩ đây là một loại “<em>tiểu-thuyết lịch-sử</em>” mang <em>tính phóng sự</em> - một phối hợp vừa văn chương vừa hiện thực mang tính lịch sử hoặc liên quan đến lịch sử chung và sự sống còn của môi trường, con sông và những con người lệ thuộc vào nó. Cũng có thể xem đây là một <em>tuyên ngôn</em> sử dụng <em>phóng sự</em> để dễ đến và thuyết phục người đọc và thức giả. Không riêng gì tác phẩm này mà ngay tác phẩm gọi là “tiểu thuyết” của ông trước 1975 như <em>Vòng Đai Xanh</em> đã từng khởi đi từ “sưu khảo về vấn đề Cao nguyên” - (<em>Tình Thương</em> số 25, Xuân 1966, đặc biệt về “Vấn đề chủ quyền Việt Nam – những sự thật về FULRO”) như ông đã xác nhận trong cuộc “Đàm thoại …” trên <em>Bách Khoa</em>, số 370 (15-6-1972, tr. 78). </p>
<p> Bảy năm sau, ông xuất bản <em>Mekong - Dòng Sông Nghẽn Mạch </em>(“Ký sự”; Văn Nghệ Mới, 2007; <em>Mekong - The Occluding River: The Tale of a River</em>. New York: iUniverse, 2010). Trong Lời Dẫn Nhập, ông cho biết: “<em> ‘Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng’, dữ kiện tiểu thuyết, xuất bản lần đầu tiên năm 2000, tái bản năm 2001 nay đã tuyệt bản. Trong khoảng thời gian ấy, tác giả đã thực hiện một số chuyến đi ‘quan sát thực địa’ từ Vân Nam Trung Quốc xuống các quốc gia Lào, Thái, Cam Bốt và Đồng Bằng Sông Cửu Long Việt Nam. ‘Mekong - Dòng Sông Nghẽn Mạch’ bao gồm những hình ảnh và các trang bút ký sống động của tác giả viết về các chuyến đi ấy.” </em><br />
Và ông lên tiếng:<em> “Kêu gọi thể hiện ‘Tinh Thần Sông Mekong’ như một mẫu số chung cho mọi quốc gia trong lưu vực với mối quan tâm bảo vệ dòng sông trong toàn bộ các kế hoạch khai thác và phát triển – nhưng đó phải là những bước hợp tác phát triển bền vững”</em> (2007 tb, tr. 11-12).</p>
<p> Đây là một ký sự du-hành mà du-ngoạn là rất phụ, tác giả như muốn tận mắt xác thực và tường trình về những vấn nạn đã nêu ra trong <em>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng</em> trước đó<em>.</em> </p>
<p> Ngô Thế Vinh còn trở về quá khứ cá nhân và văn học nghệ thuật với tập ký sự <em>Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa</em> in năm 2017 với 18 chân dung gồm 16 văn nghệ sĩ và 2 nhà văn hóa: Mặc Đỗ, Như Phong, Võ Phiến, Linh Bảo, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Nguyên Khai, Cao Xuân Huy, Phùng Nguyễn, GS Phạm Biểu Tâm, GS Phạm Hoàng Hộ. Năm 2022, tập II tiếp nối, gồm chân dung của 15 văn nghệ sĩ và nhà văn hóa BS Nguyễn Tường Bách và Hứa Bảo Liên, GS Hoàng Tiến Bảo, Tạ Tỵ, BS Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, GS Nguyễn Văn Trung, Dohamide, Lê Ngọc Huệ, BS Nghiêm Sỹ Tuấn, BS Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư và Ngọc Yến, Phan Nhật Nam và John Steinbeck. Hai tập ký sự có ưu điểm khá đầy đủ tiểu sử, bổ túc hình ảnh và dăm nhận xét hoặc tường trình về các biến cố, sự việc liên quan đến các vị này<em>. </em></p>
<p> Nhìn chung, Ngô Thế Vinh là một nhà văn dấn thân, có lý tưởng riêng – dù từng bị dư luận phía khác phê phán, ông luôn tự tin và đã để lại những chứng tích mang tính văn nghệ cũng như chính trị, xã hội.</p>
<p><strong>NGUYỄN VY KHANH</strong></p>
<p>Toronto tháng 12-2023<br />
[Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt 02-2024]</p><p><br /></p>
<p><strong></strong></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjF_CA5rQs5-ZfkR2hLoEkMaAD7lOvBmVM0FJojYysqOgkR_KH_ngIiuvaLIStSwE0s84W0HDwHs51Dhc9PdOtnLISC1sbczPMAker572z4tpvVS3Kd4H4nIeQec8sDFWDL6cHdfzoCbcV8QbYG_tlnhWa5cLlAuhfXCYM9T1kAeFGWkVvtNvnUoQq_7y4/s474/NguyenVyKhanh-2.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="474" data-original-width="373" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjF_CA5rQs5-ZfkR2hLoEkMaAD7lOvBmVM0FJojYysqOgkR_KH_ngIiuvaLIStSwE0s84W0HDwHs51Dhc9PdOtnLISC1sbczPMAker572z4tpvVS3Kd4H4nIeQec8sDFWDL6cHdfzoCbcV8QbYG_tlnhWa5cLlAuhfXCYM9T1kAeFGWkVvtNvnUoQq_7y4/s320/NguyenVyKhanh-2.jpg" width="252" /></a></strong></div><strong>NGUYỄN</strong><strong> VY KHANH</strong><br />
<em>Sinh năm 1951 tại Quảng Bình. Định cư ở Canada từ 1975, hiện sống hưu tại Toronto. Tốt nghiệp Cao học Triết Tây, ĐH Văn Khoa Sài Gòn; thủ khoa ban Việt Hán ĐH Sư phạm Sài Gòn; Cao-học Quản trị Thư viện (MLS, ĐH Montréal, 1978). Viết biên khảo về văn học. Trong ban biên tập các tạp chí Định Hướng (Pháp), Nhân Văn (San Jose, CA), Ngày Nay (Houston, TX), Người Việt (Montréal), Văn Học Mới (Westminster, CA), và Ngôn Ngữ (Westminster, CA). </em><p></p>
<strong><em>Tác-phẩm: </em></strong><em>Bốn Mươi Năm Văn Học Chiến Tranh 1957-1997 (Nxb Đại Nam, 1997), Văn Học và Thời Gian (Nxb Văn Nghệ, 2000), Văn Học Miền Nam 1954-1975 (Nxb Nguyễn Publishings, 2016, 2019), Trương Vĩnh Ký: Tinh-Hoa Nước Việt (Nguyễn Publishing, 2018), Nhà Văn Việt Nam Hải-Ngoại: tuyển tập nhận định văn học (Nxb Nhân Ảnh, 2019), Văn-Học Quốc Ngữ Thời Đầu và Miền Nam Lục-Tỉnh (Nhân Ảnh, 2021), Sống và Viết ở Ngoài Nước (Nguyễn Publishing, 2021), Hồ Biểu Chánh, nhà văn miền Nam (Nguyễn Publishing, 2022), Sơ Thảo Văn Học Công Giáo Việt Nam (Nguyễn Publishing, 2023), Sáng Tạo, tạp chí và các nhà văn (Nguyễn Publishing, 2023).</em>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-70939262933481672942023-12-21T00:16:00.000-08:002023-12-21T00:16:56.905-08:00Thủ tướng Cam Bốt gây ngờ vực tại Hà Nội về dự án thủy lộ Phù Nam<p style="text-align: center;"><strong>KS Phạm Phan Long, P.E.</strong></p><p> Ủy ban sông Mekong quốc gia Cam Bốt (CB) đã công bố kế hoạch đào kênh Phù Nam dưới tên Funan Techo Canal, đây là dự án đầu tiên trong lịch sử giao thông đường thủy của CB dài 180 km bắt đầu từ Prek Takeo của sông Mekong nối sang sông Bassac và qua tỉnh Kandal và Kep. Hội đồng Bộ trưởng Cam Bốt vào tháng Năm 2023 đã phê duyệt dự án $1,7 tỉ USD này dựa vào nghiên cứu do cố vấn Trung Quốc (TQ) bí mật biên soạn.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg64pSEvk67qKIGJwIv9j_pX7s2Z1Ys6AoRBGmYFcz9SynFzB6ifpo2tQtzhyphenhyphen6rpvSP76ouDk0idMBbPHyMIaU2BuF9rOekTwo7usCQTEifqhB_gHjNNkuYfVtjqZlAR1KkZbGtzqp32mVQLli8oPLRGW9iY83dSnJcEb3Yy60VMfIdEhqCtFmegk5wins/s1194/6454-1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="885" data-original-width="1194" height="296" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg64pSEvk67qKIGJwIv9j_pX7s2Z1Ys6AoRBGmYFcz9SynFzB6ifpo2tQtzhyphenhyphen6rpvSP76ouDk0idMBbPHyMIaU2BuF9rOekTwo7usCQTEifqhB_gHjNNkuYfVtjqZlAR1KkZbGtzqp32mVQLli8oPLRGW9iY83dSnJcEb3Yy60VMfIdEhqCtFmegk5wins/w400-h296/6454-1.jpg" width="400" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj2j35yXdBbiwvvHqHbwKkQn0GYa91TVzxwwpTFwcHmmU7atlXFD7sfP6Nc1Vl6C_Y19s_COi-hywSjW2E4qcO7hzdOzyExXj9Kbntv2jdEExmf2vahyphenhyphen1wzToayBV60K2KURloq_m6nlCpmDXfd17X87UMjj3OJDqNKMefaTaLBlgwaLhgSA1RG2oRqSrU/s1199/6454-1b.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="886" data-original-width="1199" height="295" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj2j35yXdBbiwvvHqHbwKkQn0GYa91TVzxwwpTFwcHmmU7atlXFD7sfP6Nc1Vl6C_Y19s_COi-hywSjW2E4qcO7hzdOzyExXj9Kbntv2jdEExmf2vahyphenhyphen1wzToayBV60K2KURloq_m6nlCpmDXfd17X87UMjj3OJDqNKMefaTaLBlgwaLhgSA1RG2oRqSrU/w400-h295/6454-1b.jpg" width="400" /></a></div><p style="text-align: center;"><em><strong>Hình 1: Kênh Phù Nam, Funan Techo Canal. Nguồn: Mekong River Commission<span></span></strong></em></p><a name='more'></a><p></p><p><strong></strong></p>
<p> Theo bản tin trên Khmer Times ngày 15 tháng 12, 2023<sup>(1)</sup> Thủ tướng Hun Manet đã giải thích rõ ràng các chi tiết của dự án kênh Phù Nam cho người đồng cấp Việt Nam Phạm Minh Chính trong chuyến thăm chính thức Hà Nội và đảm bảo dự án Phù Nam sẽ không ảnh hưởng đến hệ thống nước sông Mekong.</p>
<p> Bài phân tích này sẽ kiểm tra và đánh giá những thông tin phía Cam Bốt đã đưa ra để trấn an Việt Nam thật sự ra sao.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiumRVbI2G5qswFt3uE4KHZ63Kbe6NAGSYN_G3jbs_uSE7PdoxCJawo9YQO7R890eDOvF1n-DRB1zGMv5_GEAOb__lNkViV6rL897DsAEiNnUB-ttIgkaJxk96jAjls-qHqJw8bEXhEUEz4G6VPwF7e7xiuqWJ8cUFeuycToQ31BvZ5p5dUJb5IvL2Xt6A/s640/6454-2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="427" data-original-width="640" height="268" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiumRVbI2G5qswFt3uE4KHZ63Kbe6NAGSYN_G3jbs_uSE7PdoxCJawo9YQO7R890eDOvF1n-DRB1zGMv5_GEAOb__lNkViV6rL897DsAEiNnUB-ttIgkaJxk96jAjls-qHqJw8bEXhEUEz4G6VPwF7e7xiuqWJ8cUFeuycToQ31BvZ5p5dUJb5IvL2Xt6A/w400-h268/6454-2.jpg" width="400" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong>Hình 2: TT Hun Manet thăm VN</strong></p>
<p> Ông Jean-François Tain, Đại biểu Bộ trưởng Đối ngoại và Hợp tác Quốc tế, cho biết ông Hun Manet đã giải thích rằng dựa trên "nghiên cứu thực tế<sup>(2)</sup>", kênh đào Phù Nam sẽ chỉ chuyển nước từ sông Bassac một phụ lưu (tributary) của sông Mekong. Ông Samdech Thipadei Hun Manet tin rằng dự án sẽ mang lại lợi ích cho nền kinh tế và thương mại của Campuchia trong ngắn hạn và trung hạn, và nó không có tác hại vào dòng nước và tác động môi trường cho Việt Nam. Ông lưu ý rằng dự án cũng không ảnh hưởng xấu đến dòng chảy của sông Mekong và các con sông khác mà thay vào đó, nó sẽ bảo tồn môi trường sinh thái và môi trường sống tự nhiên cho đa dạng sinh học. </p>
<p><strong>Sông Bassac </strong><strong>có</strong><strong> phải là phụ lưu (tributary)</strong><strong> </strong><strong>Mekong như CB và Hun Manet đã nói hay không?</strong></p>
<p> Uy bạn quốc gia Mekong của CB và ông Hun Manet đã dùng tiếng <strong>tributary</strong>, phụ lưu để gọi sông Bassac thay vì <strong>distributary</strong>, phân lưu. Gọi như thế là một sai lầm về Anh ngữ và thuật ngữ sông ngòi. Thật vậy, sông Bassac là một trong hai nhánh phân lưu từ dòng chính, từ một hiện tượng được gọi là phân nhánh. Phụ lưu thực sự đối nghịch với phân lưu, là một dòng phụ mang nước chảy vào dòng chính, rõ ràng sông Bassac không chảy vào dòng chính mà là một trong hai phân lưu của dòng chính.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh6VMSmi4yGgNCqao2fjWtqXCJexzZwUZMFw7tELpqxApsXf5DUVQwvPSwKsBFniBvXSoZi8wsiT_2Wk_MpVLaUojbKI1u4HSOAEilxJgMNHrbtIX-TZwRQCt11CZD6XDkuFpRY1ig4WgFPx-kRdD5Jl6ruWuogxADzeIyCr2dH-zEHvZcbeUVUQMg5jmU/s600/6454-3.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="337" data-original-width="600" height="225" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh6VMSmi4yGgNCqao2fjWtqXCJexzZwUZMFw7tELpqxApsXf5DUVQwvPSwKsBFniBvXSoZi8wsiT_2Wk_MpVLaUojbKI1u4HSOAEilxJgMNHrbtIX-TZwRQCt11CZD6XDkuFpRY1ig4WgFPx-kRdD5Jl6ruWuogxADzeIyCr2dH-zEHvZcbeUVUQMg5jmU/w400-h225/6454-3.jpg" width="400" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong>Hìn</strong><strong>h 3: Phụ lưu và Phân lưu của một dòng sông<sup>(3)</sup></strong></p>
<p>Theo trang mạng của Mekong River Commission, tổ chức quốc tế cho sông Mekong đã minh định rõ danh tính phân lưu của sông Bassac<sup>(4)</sup> như sau:</p>
<p><em>Gần thủ đô Phnom Penh của Campuchia, sông Bassac, phân lưu lớn nhất của sông Mê Kông, rẽ nhánh. Đây là nơi đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu khi sông Mê Kông và sông Bassac nhập vào một vùng đồng bằng rộng lớn màu mỡ ở miền Nam Việt Nam. </em></p>
<p>Ông Hun Manet, tốt nghiệp trường West Point, có bằng Thạc sĩ kinh tế tại Đại học New York, Hoa Kỳ, năm 2002 và bằng Tiến sĩ kinh tế tại Đại học Bristol, Vương quốc Anh, năm 2009. TS Hun Manet không thể lầm lẫn giữa phân lưu và phụ lưu một cách khó tha thứ như thế được.</p>
<p> Vậy đây phải là ngôn ngữ được ông và CB lựa chọn có tính chiến lược để tránh né thỏa hiệp với VN. Vì Mekong và Bassac là hai phân lưu dòng chính CB sẽ phải có thỏa hiệp với VN cho kênh Phù Nam theo quy định của Điều 5. B. 2. B. của Hiệp định sông Mekong 1995.</p>
<p><strong>Kênh Phù Nam </strong><strong>có phải chỉ có mục đích</strong><strong> </strong><strong>giao thông đường thuỷ </strong><strong>thôi </strong><strong>như </strong><strong>CB</strong><strong> thông báo </strong><strong>hay </strong><strong>sẽ </strong><strong>chuyển nước khỏi d</strong><strong>òng </strong><strong>chính</strong><strong> sử dụng cho</strong><strong> </strong><strong>mục đích thủy lợi</strong><strong>?</strong><strong> </strong></p>
<p> Theo bức thư thông báo ngày 8 tháng 8, năm 2023 cho TS Anoulak, Secretariat của Mekong River Commission (MRC) do Cambodia National Mekong Committee gởi đi, CB xây kênh Phù Nam cho mục đích giao thông đường thủy, trong thư này CB không hề để cập đến mục đích nông nghiệp hay thủy lợi, lúc đó họ đã quy kết sông Bassac là phụ lưu mặc dù nó là phân lưu. </p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEha6q7omnxAWNBNCDvecwsxPblPiSt7g8g-enaav7baCZZD7xZDWV9HY-_BiR7Of-n_7ncuBvbx7dOOTJBCGBd2zNyHY1gpy0e4jOyQ9g2VeRp4whtxO4k1CYu7X4iujlcNGKM4srFwClQhF0XYlkuLmGJXaqzSMrGPUbEHeI9Le5l26Zh4cxDoR5iL4XU/s785/6454-4.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="733" data-original-width="785" height="374" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEha6q7omnxAWNBNCDvecwsxPblPiSt7g8g-enaav7baCZZD7xZDWV9HY-_BiR7Of-n_7ncuBvbx7dOOTJBCGBd2zNyHY1gpy0e4jOyQ9g2VeRp4whtxO4k1CYu7X4iujlcNGKM4srFwClQhF0XYlkuLmGJXaqzSMrGPUbEHeI9Le5l26Zh4cxDoR5iL4XU/w400-h374/6454-4.png" width="400" /></a></div><br /><p>Theo tài liệu kèm là thu trên: “<strong><em>Mục tiêu chính của dự án</em></strong><em> phục hồi giao thông thủy này là kết nối lại các tuyến đường thủy nội địa mang tính lịch sử và tự nhiên<strong> cho giao thông và giao thông của cộng đồng</strong> địa phương ở Campuchia.”</em></p>
<p>Tuyên bố với báo chí CB về kênh Phù Nam, ông Jean-François Tain lại nói rằng Dự án này sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho Campuchia như giảm thời gian và chi phí vận chuyển, tạo ra các khu thương mại và trung tâm hậu cần, phát triển các thiết bị đầu cuối mới, <strong>mở rộng các khu phát triển nông nghiệp, thủy lợi, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi và hỗ trợ phát triển cực kinh tế thứ tư.</strong></p>
<p>Như thế CB đã không che dấu nữa, họ đào kênh Phù Nam không chỉ cho giao thông đường thủy, mà sẽ chuyến nước làm thủy lợi. Đúng như điều người viết đã ngờ vực và quan tâm khi RFA phỏng vấn<sup>(5)</sup>. Vì hoạt động thủy lợi, CB sẽ chỉ đóng mở cổng các âu thuyền khi cho tàu thuyền vượt qua, bình thường các âu thuyền sẽ giữ tình trạng mở (normally open) để chuyển nước cho thủy lợi. Lượng nước chuyển từ hai phân lưu vào kênh Phù Nam sẽ là lượng nước không còn chảy xuống Đồng bằng sông Cửu Long. </p>
<p><strong>Theo Điều 7 của Hiệp định 1995, CB sẽ phải “Cố gắng hết sức để tránh, và giảm thiểu các tác động có hại có thể xảy ra đối với môi trường, đặc biệt là số lượng và chất lượng nước, điều kiện thủy sinh (hệ sinh thái) và cân bằng sinh thái của hệ thống sông, từ việc phát triển và sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Mê Kông hoặc xả chất thải và dòng chảy trở lại.”</strong></p>
<p><strong>Việt Nam có thể đối thoại với Cam Bốt như thế nào về kênh Phù Nam</strong></p>
<p>Người Việt hy vọng ông Phạm Minh Chính đã không im lặng khi nghe ông Hun Manet trấn an VN về kênh Phù Nam với ngôn ngữ mập mờ như thế giữa thủ đô Hà Nội. VN cần khuyến cáo CB bằng cách thân thiện nhất có thể là việc họ gọi hai phân lưu sông Bassac và Mekong là phụ lưu là không chính xác trong thuật ngữ sông ngòi. Sau đó VN có thể trấn an CB là VN sẽ không phản đối mà có thể sẽ ủng hộ dự án kênh Phù Nam cho mục đích giao thông đường thủy, nhưng VN sẽ quyết liệt phản đối tác động thủy lợi của kênh Phù Nam nếu không có thỏa hiệp. Với mục đích nào cũng thế, VN cần yêu cầu CB nghiêm chỉnh tuân thủ các điều khoản công bằng và hợp lý đã có sẵn trong Hiệp định 1995 cùng với các quy tắc kiểm soát dòng chảy để bảo vệ quyền lợi cho VN.</p>
<p> Thật vậy, sông Bassac và Mekong chảy xuyên biên giới vào sông Hậu và sông Tiền ở Việt Nam, nên CB không thể dựa vào “nghiên cứu thực tế” mà CB có trách nhiệm nghiên cứu nghiêm túc tác động xuyên biên giới theo tiêu chuẩn TbEIA của MRC cho dự án<sup>(6)</sup>.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjWnk1u67GuYUsP6GLrkquar4fZqprrKAh-0Ckep-LGXSLVNrMCRBibFd4KQqj2vVtuFYyi_R4MZPxBcKyuuTCU1iEbUz3nO59LxrIbTv3UOMK7TeZbNNalsAaDPXzR6KUyo-WbdwpCyIjmlNNKXLENFJV3EGjMyRDo4K3udSDbhL0Jo9zek00dkeFWEGQ/s1445/6454-5.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1445" data-original-width="1197" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjWnk1u67GuYUsP6GLrkquar4fZqprrKAh-0Ckep-LGXSLVNrMCRBibFd4KQqj2vVtuFYyi_R4MZPxBcKyuuTCU1iEbUz3nO59LxrIbTv3UOMK7TeZbNNalsAaDPXzR6KUyo-WbdwpCyIjmlNNKXLENFJV3EGjMyRDo4K3udSDbhL0Jo9zek00dkeFWEGQ/s320/6454-5.png" width="265" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgOSXaimZ8AvMJpvK3GYTC-ky0EVSVjPaM1Qilee9cvUTzoW34EYO1C8_YjsnRkKVyCeX0KDRuLlyOD_yswldL1sSY8WE9mj0CJxLxw2b5DxgQqyjHaqIfTItIPmWkNCJc-a6Gxexk2xEe47TEW-IHhpKvMYL229XHehHCYyS3GP-zgtBEtPENqR6MXdns/s1815/6454-5b.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1815" data-original-width="1321" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgOSXaimZ8AvMJpvK3GYTC-ky0EVSVjPaM1Qilee9cvUTzoW34EYO1C8_YjsnRkKVyCeX0KDRuLlyOD_yswldL1sSY8WE9mj0CJxLxw2b5DxgQqyjHaqIfTItIPmWkNCJc-a6Gxexk2xEe47TEW-IHhpKvMYL229XHehHCYyS3GP-zgtBEtPENqR6MXdns/s320/6454-5b.png" width="233" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjjzjkGBJ97MYe2UcEPKWlEzFo-9Fhqgqa27otoiC2vx4nJRtnB4EqUoA0oSzAQZ1DpafJWRcLA4xCn0fmlDzoi135VeEv9g1fi2D1ujJ1Y00mttTvrpR2lyTfCnzjalsmWa5uR6H6Ep7hmmWa3A0aZGKQ8Toe81WNo6TWaDZ7vqXajimCVasB3NAToPjQ/s1325/6454-5c.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="978" data-original-width="1325" height="295" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjjzjkGBJ97MYe2UcEPKWlEzFo-9Fhqgqa27otoiC2vx4nJRtnB4EqUoA0oSzAQZ1DpafJWRcLA4xCn0fmlDzoi135VeEv9g1fi2D1ujJ1Y00mttTvrpR2lyTfCnzjalsmWa5uR6H6Ep7hmmWa3A0aZGKQ8Toe81WNo6TWaDZ7vqXajimCVasB3NAToPjQ/w400-h295/6454-5c.png" width="400" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong>Hình </strong><strong>4</strong><strong>: Tiêu chuẩn của Hiệp định 1995. Mekong River Commission</strong></p>
<p>Cụ thể CB có trách nhiệm hợp tác bảo vệ lưu vực thể theo những Thủ tục MRC<sup>(7)</sup> đã thông qua sau đây trong tinh thần xây dựng niềm tin giữa các Quốc gia Thành viên MRC:</p>
<ul>
<li>Khảo sát các tác động cá nhân và tích lũy và tiềm ẩn, đặc biệt là khi có nguy cơ tác động xuyên biên giới của kênh Phù Nam. </li><br />
<li>Sử dụng hợp lý và công bằng nước và các nguồn tài nguyên liên quan của lưu vực sông Mê Kông thông qua việc áp dụng các biện pháp tránh, giảm thiểu hoặc giảm thiểu bất kỳ tác động có hại nào kênh Phù Nam có thể gây ra.</li><br />
<li>Nghiên cứu PDG<sup>(8)</sup>, Hướng dẫn thiết kế cho kênh Phù Nam. Khảo sát tác động tích lũy các việc sử dụng nước thông qua quy trình PNPCA và việc thực hiện các biện pháp này đang được theo dõi và báo cáo; </li><br />
<li>Khảo sát tác động của kênh Phù Nam đối với tình trạng của lưu vực và các tình huống khẩn cấp về phẩm chất nước cần được thông báo kịp thời nhất có thể. </li>
</ul>
<p><em>Trước </em><em>tình hình căng thẳng về </em><em>dự án</em> <em>kênh Phù Nam,</em><em>CB và VN</em> cần giữ hòa khí, không <em>cho TQ khai thác biến </em><em>kênh </em><em>Phù Nam thành</em><em> cơ hội x</em><em>ung đột</em> <em>giữa hai dân tộc. CB và VN </em><em>cần lập </em><em>một liên minh chiến lược</em> <em>bảo vệ</em><em> sông mẹ Mekong và </em><em>quyền lợi</em> <em>cho cho</em> <em>cả hai nước</em><em> với các nước thượng nguồn.</em></p>
<p><em>VN có cách khuyến khích và ràng buộc CB tuân theo các thủ tục của MRC để kiểm soát kênh Phù Nam. Giới hạn trọng tải tàu thuyền trên kênh Phù Nam CB công bố là 1000 DWT. Nam Vang sẵn có hai thương cảng, có khả năng cho tàu 2000 DWT và 5000 DWT ra vào nên CB sẽ vẫn cần vận chuyển tàu bằng sông Tiền và sông Hậu. Do đó VN có tư thế thảo luận với CB với tiếng nói trọng lượng.</em></p>
<p><em><strong>Cam Bốt và Việt Nam chịu chung một bất hạnh giáng xuống từ thượng nguồn </strong></em></p>
<p><em>Biển Hồ Tonle Sap đã trải qua những mùa lũ kiệt quệ. Diện tích động lũ co thắt lại và năng suất ngư nghiệp thất thoát mất dần. Lượng nước Mekong chảy ngược tiền thủy điện lên BH trung bình là 43 km3 mỗi mùa mưa nay hạ xuống chỉ còn 10 km3</em><sup>(9)</sup><em>. Đó là vì các hồ chứa thủy điện thượng nguồn tích trữ nước nên vào giữa mùa mưa mà một phần đồng lũ Tonle Sap bất lực phải chịu cảnh khô khát. <strong>An ninh nguồn nước và thực phẩm của CB đang lâm nguy, CB</strong> <strong>không thể để Biển Hồ, trái tim lưu vực sông Mekong ngừng đập.</strong></em></p><p><em></em></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><em><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhUsOupOZLXMx4n3lE2Cuy8OBAPhnOO4ytSTNCW8mvfpIEd9m9y1hLkIAs7b23RoamJSgoWOOODZuQfgBCdH9TGAS3lXf7P3zevF0i0J9enZGSkHoHWuscpYOzOrlR1GFz9T2b7zvjziIBar526Dws91VbLe4ih5SehIVbjlGGwAjoURm98uMJLi2LAsMk/s1381/6454-6.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1381" data-original-width="1160" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhUsOupOZLXMx4n3lE2Cuy8OBAPhnOO4ytSTNCW8mvfpIEd9m9y1hLkIAs7b23RoamJSgoWOOODZuQfgBCdH9TGAS3lXf7P3zevF0i0J9enZGSkHoHWuscpYOzOrlR1GFz9T2b7zvjziIBar526Dws91VbLe4ih5SehIVbjlGGwAjoURm98uMJLi2LAsMk/w336-h400/6454-6.png" width="336" /></a></em></div><p></p><p style="text-align: center;"><em><strong>Hình 5: Tình trạng suy thoái của Biển Hồ Tonle Sap</strong></em></p>
<p><em>Thậy vậy, nhóm nghiên cứu của TS Samuel De Xun Chua, Department of Geography, National University of Singapore đã khảo sát nhịp lũ suốt 60 năm tại BH và công bố</em><sup>(10)</sup><em> tình trạng suy thoái như sau:</em></p>
<p><em>“</em><em>Chúng tôi thấy rằng … thời gian mùa lũ đã giảm khoảng 26 ngày (Kampong Cham) và 40 ngày (Chaktomuk), mùa lũ bắt đầu muộn hơn và kết thúc sớm hơn nhiều. Dọc sông Tonle Sap, dòng chảy ngược trung bình hàng năm từ sông Mê Kông đến hồ Tonle Sap đã giảm 56,5 %, từ 48,7 km3 năm 1962–1972 xuống còn 31,7 km3 năm 2010–2018. Kết quả là mực nước mùa mưa tại hồ Tonle Sap giảm 1,05 m trong năm 2010–2019 so với năm 1996–2009, tương ứng với diện tích hồ giảm 20,6 %.</em><em>” </em><br />
<em>Khi Biển Hồ CB thiếu nước lũ vào mùa mưa thì sẽ không có nước để bù đắp cho Mekong vào mùa khô sau đó, mực nước sông Tiền và sông Hậu vì thế đều đã hạ thấp trong các năm qua cho dù các trạm quan trắc từ Kristie lên Jinghong đều có mục nước ở mức bình thường. Có quan sát viên đã dựa vào số liệu các trạm trên để tránh né trách nhiệm và biện bạch cho thủy điện TQ và Lào</em><sup>(11)</sup><em>. </em></p>
<p><em>Kỷ lục mực nước tại Tân Châu và Châu Đốc ở đồng bằng sông Cửu Long vào mùa khô hiện đã hạ xuống dưới zero vào các tháng mùa khô. <strong>Điều này có nghĩa là an ninh nguồn nước và sự sinh tồn cho Đông bằng sông Cửu Lòng đã rơi vào tình trạng nguy kịch vào mùa khô không thể chấp nhận cắt giảm nước thêm nữa.</strong></em> </p><p><em></em></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><em><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiFoev52poMtCmohDtpdW2eNnaIYrYWziEvBYtt4zmomq7poV7_ePm_MnTFleUQ-4NzVtrhwh-e8YhQ0zzQa6IEhTMx-InQkkYiyIOiJSCxeHWvuz0YM4dWpAcvTMfo5bHD49fB5XGDChFaeUafRMxmC0oEaS38hwlF-vCQwDHkeGua0IkKgs0_nnWl6kA/s1436/6454-7.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1399" data-original-width="1436" height="390" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiFoev52poMtCmohDtpdW2eNnaIYrYWziEvBYtt4zmomq7poV7_ePm_MnTFleUQ-4NzVtrhwh-e8YhQ0zzQa6IEhTMx-InQkkYiyIOiJSCxeHWvuz0YM4dWpAcvTMfo5bHD49fB5XGDChFaeUafRMxmC0oEaS38hwlF-vCQwDHkeGua0IkKgs0_nnWl6kA/w400-h390/6454-7.jpg" width="400" /></a></em></div><em><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhZUNc1S1dnm_zfYJp2O-l0YPHU8gKHum02oIRHuohVGghVqQq-Eti9qmNqOQC3z1CAoLHCpyVNU5UnXjCGCqwxWo6M8t53ZC4PPuI_kX1FNJTnppSrxshjp0M3_aacHzSSyrq3oUtq_DRnKddbcHvuyhjHxjgGCX2_N8WOntyKk7ChvIctiR6WDZGbKGA/s1474/6454-7b.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1436" data-original-width="1474" height="390" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhZUNc1S1dnm_zfYJp2O-l0YPHU8gKHum02oIRHuohVGghVqQq-Eti9qmNqOQC3z1CAoLHCpyVNU5UnXjCGCqwxWo6M8t53ZC4PPuI_kX1FNJTnppSrxshjp0M3_aacHzSSyrq3oUtq_DRnKddbcHvuyhjHxjgGCX2_N8WOntyKk7ChvIctiR6WDZGbKGA/w400-h390/6454-7b.jpg" width="400" /></a></div></em><p></p><p style="text-align: center;"><em><strong>Hình 6: Mực nước thấp dưới zero nguy kịch tại Tân Châu và Châu Đốc</strong></em></p>
<p><em><strong>Chiến lược an ninh nguồn nước Mekong cho Cam Bốt và Việt Nam</strong></em></p>
<p><em>Có chung mối đe dọa sinh tồn, hai dân tộc CB và VN cần đoàn kết đấu tranh với Trung Quốc, Lào và Thái Lan để giành lại công bằng chia sẻ nguồn nước Mekong trên toàn lưu vực, nhưng đáng tiếc cho đến nay chính phủ hai nước này không nhận thức được như vậy, thay vào đó CB và VN tranh với nhau lượng nước còn sót mà 54 đập lớn trong tổng số 430 đập thượng nguồn tích nước sử dụng rồi mới tùy tiện xả xuống cho mình. </em></p>
<p><em>Hai</em><em> nước</em><em> CB và VN cần thức tỉnh thay đổi chiến lược, </em><em>hợp tác</em> <em>ở mức cấp cao nhất cùng làm bản tuyên ngôn chung “Không chấp nhận cho thêm con đập nào nữa”, và “Yêu cầu giới hạn hoạt động các đập thượng nguồn để bảo vệ và phục hồi nhịp lũ môi sinh </em><em>cho </em><em>Biển Hồ, vựa cá của dân tộc CB và ĐBSCL, vựa thóc của dân tộc VN”.</em> </p>
<p><em>Ngày 18 tháng 12, 2023</em></p>
<p><strong>KS Phạm Phan Long, P.E.<br />
</strong>Chairman<br />
Viet Ecology Foundation</p>
<ol>
<li><a href="https://www.khmertimeskh.com/501407454/in-depth-explanation-cambodia-allays-vietnams-concern-over-funan-techo-canal/">https://www.khmertimeskh.com/501407454/in-depth-explanation-cambodia-allays-vietnams-concern-over-funan-techo-canal/</a></li><br />
<li>Nghiên cứu này do cố vấn Trung Quốc biên soạn </li><br />
<li>https://www.javatpoint.com/difference-between-tributary-and-diítributary</li><br />
<li><a href="https://www.mrcmekong.org/about/mekong-basin/geography/">https://www.mrcmekong.org/about/mekong-basin/geography/</a></li><br />
<li><a href="https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/funan-techo-canal-a-beijing-sinister-plot-10162023111345.html">https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/funan-techo-canal-a-beijing-sinister-plot-10162023111345.html</a></li><br />
<li><a href="https://www.mrcmekong.org/resource/aqrsbk#:~:text=The%20Guidelines%20for%20Transboundary%20Environmental,Countries%20with%20a%20TbEIA%20application">https://www.mrcmekong.org/resource/aqrsbk#:~:text=The%20Guidelines%20for%20Transboundary%20Environmental,Countries%20with%20a%20TbEIA%20application</a></li><br />
<li><a href="https://www.mrcmekong.org/resource/ajg3u8">https://www.mrcmekong.org/resource/ajg3u8</a></li><br />
<li>Preliminary Design Guidance</li><br />
<li><a href="https://www.stimson.org/2023/mekong-dam-monitor-annual-report-2022-2023/">https://www.stimson.org/2023/mekong-dam-monitor-annual-report-2022-2023/</a></li><br />
<li><a href="https://hess.copernicus.org/articles/26/609/2022/">https://hess.copernicus.org/articles/26/609/2022/</a></li><br />
<li><a href="https://anhbasam.wordpress.com/2016/03/20/7538-tinh-trang-thieu-nuoc-o-dong-bang-song-cuu-long/">https://anhbasam.wordpress.com/2016/03/20/7538-tinh-trang-thieu-nuoc-o-dong-bang-song-cuu-long/</a></li><br />
</ol>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-34227568014296725202023-12-20T20:23:00.000-08:002023-12-20T20:23:30.823-08:00RFA Phỏng vấn BS Ngô Thế Vinh về Kênh Funan và Đồng Bằng Sông Cửu Long<p><i>Như bài viết gần đây của ông về kênh đào Phù Nam của Cam Bốt, và đặc biệt như một tuyên bố gần đây nhất của Thủ tướng Cam Bốt Hun Manet: “Kênh đào Phù Nam không lấy nước từ sông Mekong mà chỉ lấy từ sông Bassac và sẽ dùng cho tưới tiêu, nông nghiệp)\”, xin ý kiến của ông về những vấn đề sau: </i></p>
<p><strong><em>PV</em></strong><strong></strong><strong><em>MAI</em></strong><strong><em> TRẦN _ </em></strong><strong><em>1) Theo ông, lập luận cho rằng sông Bassac không thuộc hệ thống Mekong và kênh đào Funan không lấy nước từ Mekong có đúng với thực tế không? </em></strong></p>
<p><strong>NGÔ THẾ VINH _</strong> 1) Tuyên bố gần đây nhất của Thủ tướng Cam Bốt Hun Manet cho rằng: <em>“</em><em>Kênh đào Phù Nam không lấy nước từ sông Mekong mà chỉ lấy từ sông Bassac và sẽ dùng cho tưới tiêu, nông nghiệp</em><em>.”</em> [sic]<span></span></p><a name='more'></a> <p></p>
<p> _ Phải nói ngay rằng đây là một câu nói thiếu thành thật, khinh thường trí tuệ của của giới lãnh đạo Hà Nội và người dân Việt Nam. Không ai có thể nghĩ rằng TT Hun Manet, người tốt nghiệp từ một học viện quân sự danh tiếng West Point của Mỹ, lại có thêm học vị Tiến sĩ Kinh tế từ Anh Quốc mà có thể thiếu kiến thức như thế. </p>
<p> _ Thiếu kiến thức địa lý sơ đẳng mới có thể nói rằng sông Bassac – một trong hai phân lưu [distributary] lớn của sông Mekong mà không thuộc hệ thống sông Mekong, để từ đó lý luận rằng kênh đào Funan Techo chỉ lấy nước từ sông Bassac mà không lấy nước từ hệ thống sông Mekong. </p>
<p> _ Nếu hiểu <em>Quatre-Bras</em> [tiếng Khmer là Chamean Mon hay Chaktomuk / tiếng Việt là nơi hội tụ của 4 nhánh sông] là gì, chúng ta có ngay câu trả lời phản bác lý luận nêu trên của TT Hun Manet. <em>Quatre Bras</em> tiếng Pháp là 4 cánh tay – là 4 nhánh của hệ thống sông Mekong:</p>
<p> _ Mekong Thượng [Upper Mekong] là dòng chính sông Mekong chảy từ bắc xuống nam tới Phnom Penh là nhánh thứ (1)</p>
<p> _ Con sông Tonle Sap là nhánh thứ (2) từ Biển Hồ chảy xuống kết nối với dòng chính Mekong Thượng; [sông Tonle Sap có đặc tính chảy 2 chiều theo: Mùa Mưa là dòng chảy ngược vào Biển Hồ và Mùa Khô nước từ Biển Hổ chảy xuôi dòng xuống ĐBSCL]. </p>
<p> _ Tại <em>Quatre Bras</em>, nơi con sông Mekong Thượng chia làm hai phân lưu [distributaries]: Mekong Hạ [Lower Mekong] là nhánh thứ (3) và Sông Bassac là nhánh thứ (4); cả hai phân lưu lớn này khi chảy vào Đồng Bằng Sông Cửu Long của Việt Nam, mang tên khác là Sông Tiền (3) và Sông Hậu (4). </p>
<p><strong>Như vậy, khi Con Kênh Funan Techo lấy nước từ con sông Bassac tức là lấy nước từ đầu nguồn của con sông Hậu thì sao lại bảo nguồn nước đó không thuộc hệ thống sông Mekong?</strong></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi4w4cUdkudJsA737stxFFyd8lqBaiTatCIXJe-b6Zo7W_tA9r_W2NCZiUJAdRcynchN6svsrcdMhXJoc0RC5BRuFF0N-X8-AzZYDPUninUtuLPavXWSmjHFRTfdpn_yr7Ucb_Pm-BanFBHSJc-WGRvBf9eT2_OBTRjKQj_vW5pPYjgaNaUK6BBnH1TBWU/s425/6452-1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="353" data-original-width="425" height="532" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi4w4cUdkudJsA737stxFFyd8lqBaiTatCIXJe-b6Zo7W_tA9r_W2NCZiUJAdRcynchN6svsrcdMhXJoc0RC5BRuFF0N-X8-AzZYDPUninUtuLPavXWSmjHFRTfdpn_yr7Ucb_Pm-BanFBHSJc-WGRvBf9eT2_OBTRjKQj_vW5pPYjgaNaUK6BBnH1TBWU/w640-h532/6452-1.jpg" width="640" /></a></div><p></p><p><em>Quatre Bras / Nơi hội tụ 4 nhánh sông: (1) Mekong Thượng, (2) Sông Tonle Sap, (3) Mekong Hạ / có tên Sông Tiền (4) Sông Bassac / có tên là Sông Hậu khi chảy vào Việt Nam. <strong>Đường chỉ đỏ nối sông Bassac và tình Kep là sơ đồ của con kênh Funan Techo của Cam Bốt sẽ khởi công vào năm 2024 và hoàn tất năm 2028.</strong></em>[Bản đồ với ghi chú của Ngô Thế Vinh] </p>
<p><strong><em>PV</em></strong><strong></strong><strong><em>MAI</em></strong><strong><em> TRẦN _ </em></strong><strong><em>2) Nếu kênh đào Funan không chỉ phục vụ giao thông thuỷ mà còn phục vụ tưới tiêu, nông nghiệp, nó có thể ảnh hưởng tới sông Mekong và ĐBSCL ra sao?</em></strong> </p>
<p><strong>NGÔ THẾ VINH _ </strong>2) Một câu hỏi rất hay, cùng một lúc Anh Mai Trần nêu ra được 2 vấn đề của con kênh đào Funan Techo. </p>
<ol>
<li><strong>Vấn đề thứ nhất, điều mà chính phủ Phnom Penh nói ra</strong> trong Thông báo gửi MRC 4 nước Mekong; khi nói về mục đích của Dự án Funan Techo chỉ vỏn vẹn có một câu: “Con kênh nội địa có mục đích vận tải và giao thông đường thủy”, với lợi ích rất rõ ràng: chặng đường sông nếu không phải qua ngả Việt Nam mà nay với con kênh Phù Nam Techo khoảng cách được rút ngắn, như vậy sẽ giảm thiểu thời gian di chuyển và bớt nhiên liệu tiêu thụ, – cũng có nghĩa là giảm đáng kể chi phí vận chuyển và quan trọng hơn nữa là tạo được một trục / hub giao thương mới mà không cần phải đi qua khúc sông Mekong của Việt Nam. Tất cả nhằm tăng tính cạnh tranh, thu hút thêm đầu tư, giảm thiểu chậm trễ và giảm chi phí về tiếp vận.</li><br />
<li><strong>Vấn đề thứ hai,</strong> <strong>điều mà chính phủ Phnom Penh ban đầu không nói ra,</strong> muốn dấu nhẹm trong Thông báo gửi MRC 4 nước Mekong, đó là tính đa năng [multipurpose] của con kênh Funan Techo – ngoài mục đích giao thông đường thuỷ, con kênh Funan còn tiềm ẩn nhiều mục đích khác bao gồm: thuỷ lợi [irrigation] chuyển dòng lấy nước [water diversion] từ con kênh Funan giúp cho việc tiêu tưới mở rộng diện tích canh tác [agriculture], tạo những hồ nước nuôi trồng thủy sản [aquaculture], bảo đảm lương thực và cải thiện đời sống các cộng đồng cư dân trong vùng. </li><br />
<li><strong>Nhìn xa hơn nữa</strong> qua các cuộc hội thảo của Diễn đàn Vận Tải và Hậu Cần 2023 [Transport and Logistics Forum 2023], người ta còn bàn tới sự gia tăng giá trị đất đai và bất động sản ven con kênh Funan, khi xây thêm được những giang cảng phụ [subordinate ports], tạo thêm công ăn việc làm, đồng thời với phát triển các khu gia cư, đô thị hoá cùng với nhu cầu cung cấp nguồn nước ngọt cho sinh hoạt. </li>
</ol>
<p>Như vậy, với con kênh đào 180 km chiều dài ấy đâu có phải chỉ cho mục đích thuỷ vận, mà còn có những mục đích phát triển cả một vùng châu thổ 4 tỉnh từ Kandal, Takeo, Kampot, và Kep trước khi đổ ra Vịnh Thái Lan, và như vậy thì <strong>lưu lượng nước lấy từ hệ</strong><strong> thống</strong><strong> sông Mekong</strong><strong>, nhất là từ</strong><strong> con sông Bassac</strong><strong> -- khúc đầu nguồn của con sông Hậu, thì chắc chắn </strong><strong> không phải chỉ 113 triệu mét khối mỗi năm mà sẽ nhiều lần lớn hơn và hậu</strong><strong> quả thiếu nước nơi ĐBSCL</strong><strong> phía dưới nguồn</strong><strong> -- nhất</strong><strong> là</strong><strong> vào mùa khô </strong><strong>không thể nào lường trước được.</strong><strong> </strong><strong> </strong></p>
<p><strong><em>PV</em></strong><strong></strong><strong><em>MAI</em></strong><strong><em> TRẦN _ </em></strong><strong><em>3) ĐBSCL đứng trước thực trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng (năm ngoái, nước mặn vào tới khu vực thị xã Bến Tre), và dòng sông Cửu Long nghẽn mạch. Việc sông Mekong nghẽn mạch rõ ràng càng lúc càng khó giải quyết. Một mặt, Việt</em></strong><strong></strong><strong><em>Nam cần thực thi những chiến lược ngắn hạn để điều hướng các bước đi của Trung Quốc và Cam</em></strong><strong><em> Bốt </em></strong><strong><em>sao cho nó công bằng hơn với ĐBSCL, nhưng mặt khác, VN cần chuyển hướng chiến lược phát triển cho ĐBSCL.</em></strong><strong> </strong></p>
<p><strong>NGÔ THẾ VINH _ </strong>3) Hâm nóng toàn cầu và biến đổi khí hậu là một thực trạng đã và đang ảnh hưởng trên toàn hệ sinh thái của khắp hành tinh này, riêng các vùng châu thổ Deltas / trong đó có ĐBSCL là đang chịu ảnh hưởng nặng nề nhất: </p>
<p> _ nước biển dâng khiến nạn ngập mặn càng ngày càng lấn sâu vào vùng châu thổ -- không phải chỉ có ở các tỉnh ven duyên hải, mà là các tỉnh trong đất liền rất xa biển, do lượng mưa thấp ở thượng nguồn và ngay cả nơi ĐBSCL. </p>
<p> _ nạn đất lún do khai thác quá mức các tầng nước ngầm [aquifers] đến mức cạn kiệt, với hơn một triệu giếng bơm hoạt động ngày đêm, lấy nước ngọt, không chỉ phục vụ tiện dụng gia cư mà cả cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp và kỹ nghệ, khiến vận tốc đất lún có nơi còn nhanh hơn mực nước biển dâng. </p>
<p> _ với những con đập thuỷ điện khổng lồ bậc thềm [Mekong cascades] Vân Nam, và với chuỗi những con đập dòng chính ở Lào, do nguồn phù sa bị giữ lại trong các hồ chứa, nguồn nước ngọt đổ về ĐBSCL là nguồn nước đói [hungry water], thay vì ĐBSCL được bồi đắp như trước kia, thì nay bị sói mòn [erosion], tạo nên một tiến trình đảo ngược khiến cả một vùng châu thổ, về lâu về dài đang trên một tiến trình tan rã. </p>
<p> _ do vận hành giữ nước của chuỗi đập thuỷ điện thượng nguồn, không có lực đẩy của nguồn nước ngọt đổ về, nạn ngập mặn có thể vào sâu tới 60km với nồng độ mặn cao tới 40/00 [bốn phần ngàn], có nơi còn cao hơn. Cùng một lúc phải ứng phó với thiếu nước ngọt, và canh tác trong tình trạng “chạy mặn”, khả năng thích nghi của người nông dân nơi ĐBSCL phải nói là rất cao, đây chính là yếu tố tích cực cho sự chuyển hướng phát triển của ĐBSCL. </p>
<p>Trước tình trạng Cửu Long ngày thêm Cạn Dòng, thiếu “nước ngọt”, thừa “nước mặn” – một vùng châu thổ bấy lâu được thiên nhiên ưu đãi đã không còn nữa. Việc chuyển hướng phát triển nơi ĐBSCL – không phải chỉ có thuần nông nghiệp, mà còn nhiều lãnh vực khác như nuôi trồng thuỷ sản, cả trên nhưng vùng nước lợ với hỗ trợ của công nghệ cao. </p>
<p>Như Anh Mai Trần đã thấy, Đồng Bằng Sông Cửu Long đang trở thành một địa bàn đầy thách đố, lối làm ăn cũ manh mún chỉ có tập trung vào cây lúa [nông dân lam lũ ngày đêm mà vẫn không đủ ăn] không còn hợp thời nữa và nhu cầu một <strong>chuyển hướng phát triển</strong> phải là một mệnh lệnh của thời đại<em>.</em> Và để trả lời “câu hỏi lớn” như vậy, đề nghị RFA lập ra một <strong>Diễn đàn Mở [Open Forum]</strong> quy tụ nhiều tiếng nói của nhiều nguồn chất xám từ trong nước ra tới hải ngoại, và ban điều hợp Diễn Đàn ấy sẽ là nhóm Ký giả Môi Sinh của Đài RFA. </p>
<p><strong>MAI TRẦN</strong><strong> </strong><br />
RFA Broadcaster/ Webcaster<br />
Washington, 20.12.2023<br />
Radio Free Asia</p>
<p><em></em></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><em><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh5rtUi64Es7xXtpa-14UFKsQ_PoB6qQd3y83zi8NKIiRbw56SKDOX8cq4zjK5Srp38wRd25nRLM2GKXA6tJEgQaIVDKiXSHb88c97c95iAThkE8lQbxgqmex8PBSM-CWfPw8_oBprlN9EnLCa5C32Z6LfBmSQK4c4sv5BQ7NEjMSCKyPQkAVlhx8aYQrc/s199/6452-2.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="159" data-original-width="199" height="256" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh5rtUi64Es7xXtpa-14UFKsQ_PoB6qQd3y83zi8NKIiRbw56SKDOX8cq4zjK5Srp38wRd25nRLM2GKXA6tJEgQaIVDKiXSHb88c97c95iAThkE8lQbxgqmex8PBSM-CWfPw8_oBprlN9EnLCa5C32Z6LfBmSQK4c4sv5BQ7NEjMSCKyPQkAVlhx8aYQrc/w320-h256/6452-2.jpg" width="320" /></a></em></div><em>BS Ngô Thế Vinh, tác giả 2 cuốn sách: Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng [2000], và ký sự Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch [2007], liên quan tới vấn đề môi sinh và phát triển Lưu vực sông Mekong và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Hình tác giả đang băng qua Biển Hồ, tới khu Bảo Tồn Sinh Thái Tonlé Sap. [12.2001]</em><p></p>
<p>Nguồn: <a href="https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/expert-cambodia-funan-canal-takes-water-from-the-mekong-vietnam-needs-a-new-strategy-for-the-mekong-delta-12202023123419.html"><em>https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/expert-cambodia-funan-canal-takes-water-from-the-mekong-vietnam-needs-a-new-strategy-for-the-mekong-delta-12202023123419.html</em></a></p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-36544158200630096052023-12-15T18:35:00.000-08:002023-12-15T19:49:06.942-08:00Ngô Thế Vinh Và câu chuyện của dòng sông Mekong<p><strong><em>Cửu Long Giang gió về vui trên sóng sông</em></strong><strong><em><br />
Uốn quanh như chín con rồng ôm chặt đứa con</em></strong><br />
[Trích ca khúc Cửu Long Giang của Phạm Duy]</p>
<p><strong>PHẠM PHAN LONG, P.E. </strong></p>
<p>Nhà văn Ngô Thế Vinh là nhà văn đầu tiên đã sớm gióng lên tiếng chuông cảnh báo về hiểm họa của thủy điện trên thượng nguồn sông Mekong. Anh đã viết hàng trăm bài khảo luận và hàng ngàn trang sách vạch ra những nguy cơ, thiệt hại vật chất, tinh thần và mối đe doạ diệt vong của các nền văn minh dân cư hạ nguồn. Tôi hân hạnh góp bài viết này về anh như một người đồng hành trên sông Mekong gần 30 năm, ôm mối quan tâm cho Đồng Bằng Sông Cửu Long [ĐBSCL] nằm ở cuối nguồn, sẽ phải hứng chịu thiệt hại nặng nề nhất vì thủy điện mà không được hưởng chút lợi ích gì.<span></span></p><a name='more'></a> <p></p>
<p>Tôi bắt đầu viết bài này về nhà văn Ngô Thế Vinh bằng một bước lùi về quá khứ, để được nhớ về các bạn đã cùng tôi khởi đầu <strong>Nhóm bạn Cửu Long </strong>và kể về cơ duyên với nhà văn Ngô Thế Vinh cho đến bây giờ. Vì mang cùng một tên hướng về cùng một mục đích nên <strong>Nhóm bạn Cửu Long</strong> trong tác phẩm của anh Vinh cũng là bạn của chúng tôi.</p>
<p>Lúc đó vào năm 1995, hai người trong Nhóm có tôi và TS Phạm Văn Hải đã trình bày tại một buổi tọa đàm “<strong>Nguy cơ cho sông Mekong”</strong> tại phòng sinh hoạt cộng đồng của tòa báo Người Việt. Đó là lần đầu tiên vấn nạn thủy điện Mekong được thảo luận công khai ở hải ngoại do Nhóm Bạn Cửu Long tổ chức. Khởi đầu là bài “<strong>Khai thác sông Mekong</strong>” của tôi trên số báo Thế kỷ 21 tháng 12, 1995 đã báo động người Việt hải ngoại. Nhóm chúng tôi còn có thêm KS Nguyễn Hữu Chung (Canada) và TS Bình An Sơn (Úc) cùng nhau viết bài báo “<strong>Sông Mekong nhìn từ góc độ Việt Nam”</strong> cho người trong nước, và sau vài tháng thì bất ngờ thấy bài này được đăng trên tờ Tuổi trẻ Chủ Nhật ngày 3 tháng 11, 1996.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgtYuOOoScttZcxLLYNudvIxX0UyTfCdm4gF_3c1I1EdgzypLrbfKk_WSwZSuZgZbR7I4vOHis7xgeO6CThIJ_9FlhErW5ScYOc6po35VlqUSMYjSVuG6szWFNFDXMjE7gMnRRISfhOw6qnbuHFJBKMKumah2mH-pPtNNF3hJQjBcZdQucuovUp0UqOgAA/s672/NTV_CauchuyenMekong-1.JPG" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="484" data-original-width="672" height="460" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgtYuOOoScttZcxLLYNudvIxX0UyTfCdm4gF_3c1I1EdgzypLrbfKk_WSwZSuZgZbR7I4vOHis7xgeO6CThIJ_9FlhErW5ScYOc6po35VlqUSMYjSVuG6szWFNFDXMjE7gMnRRISfhOw6qnbuHFJBKMKumah2mH-pPtNNF3hJQjBcZdQucuovUp0UqOgAA/w640-h460/NTV_CauchuyenMekong-1.JPG" width="640" /></a></div><p><em>Hình 1: Thế Kỷ 21 hải ngoại tháng 12/ 1995 v</em><em>à Tuổi</em><em> Trẻ Chủ Nhật trong nước 3/11/1996</em><em>lần</em><em> đầu tiên báo động về các đập thủy điện Trung Quốc trên Mekong.</em></p><p>
[nguồn: tư liệu Phạm Phan Long]</p>
<p>Năm 1995, Trung Quốc đã xây xong đập đầu tiên Mạn Loan và bắt đầu hoạt động, họ có kế hoạch sẽ xây một chuỗi 14 đập thủy điện bậc thềm trên Vân Nam, (bây giờ họ đã xây xong 11 con đập). Sau buổi tọa đàm 1995, nhà báo Như Phong đã giới thiệu cho tôi được gặp nhà văn Ngô Thế Vinh và từ đó anh và tôi cùng nghiên cứu và tường trình về các công trình và tác hại thủy điện giáng xuống lưu vực. Tuy không ngăn cản được một con đập nào của TQ hay Lào, anh vẫn nghiêm túc lên tiếng trước tất cả các sự việc bất lợi cho ĐBSCL, phản đối sự yếu thế và bất lực của chính quyền VN, chỉ trích những động thái ngang ngược của Trung Quốc, Thái, Lào và Cam Bốt. Anh đã sưu tầm rất cặn kẽ lịch sử, văn minh, địa lý và viết ra những chương sách có giá trị học thuật nhưng thật kỳ thú. </p>
<p>Là một bác sĩ và nhà văn Ngô Thế Vinh mang trong mình một sứ mạng nặng nề, có những lúc nhận được những bản tin điên rồ nhất, như VN tham dự vào dự án thuỷ điện phụ lưu lớn nhất Se San-2 cùa Cam Bốt, rồi đầu tư vào dự án thuỷ điện dòng chính Luang Prabang của Lào, nối giáo cho giặc, cõng rắn cắn gà nhà. Đó là những động lực thôi thúc anh không thể im lặng vì đã xem con đường này là <strong>mệnh lệnh của trái tim</strong>, và anh đã thể hiện được bằng những công trình giá trị được công nhận bởi các giải thưởng văn học cao quý<a href="#_ftn1" id="_ftnref1" name="_ftnref1" title=""> </a>. </p>
<p>TS Lê Anh Tuấn từ ĐH Cần Thơ, nhà khoa học biển đối khí hậu, là người đồng cảm nhất với suy tư của Ngô Thế Vinh đã nhân cách hóa ĐBSCL như sau: </p>
<p><strong><em>Cần phải xem cả hệ sinh thái vùng châu thổ Cửu Long như một cơ thể sống, trong đó dòng sông là các mạch máu nuôi các tế bào bên trong, đất đai là xương thịt hình hài tạo khung cho cơ thể, tính đa dạng sinh vật, phong phú cây trái, rừng ngập nước là diện mạo bên ngoài cơ thể và nền văn minh sông nước, tập quán, tâm linh chính là tâm hồn và tính cách của cơ thể sống này. Một cơ thể sống khỏe mạnh và xinh đẹp phải có đầy đủ các yếu tố hình thành nó. Bất cứ hành vi nào chặt đứt mạch máu của cơ thể sống, tương tự như cắt chặn dòng sông, sẽ tạo ra những đau đớn, tổn thương và bẻ gãy chuỗi lưu chuyển dinh dưỡng và sinh khí cho cơ thể.<a href="#_ftn2" id="_ftnref2" name="_ftnref2" title=""> </a></em></strong></p>
<p>Đứng trước thảm hoạ các loài di ngư sông Mekong sớm tuyệt chủng vì là loài di ngư nhiệt đới khi bị ngăn chặn tại các hồ chứa và chân đập, chúng không có khả năng phóng vượt lên các bậc thang cá để về nguồn đẻ trứng như loài di ngư Salmon ôn đới. Hiện tượng này không chỉ với các đoàn di ngư mà cả với phù sa cũng bị tắc lối, dưới mắt nhà văn Ngô Thế Vinh, Mekong là một cơ thể bị “<strong>nghẽn mạch</strong>”. Đồng lũ Biển Hồ và ĐBSCL vì các đập ngăn cắt, bị trữ nguồn nước nên đã rơi vào những trận hạn hán bất thường, Biển Hồ tuy vào mùa mưa hàng năm cũng bị co thắt dần, cùng lúc hơn nửa diện tích đồng lũ bị khô hạn, BS Ngô Thế Vinh chẩn đoán là Biển Hồ, như <strong>trái tim lưu vực</strong><a href="#_ftn3" id="_ftnref3" name="_ftnref3" title=""> </a>, đang phải gánh chịu những “<strong>cơn đau thắt ngực<a href="#_ftn4" id="_ftnref4" name="_ftnref4" title=""> </a></strong>“ có thể sẽ ngừng đập. </p>
<p>Từ năm 2006, Ngô Thế Vinh đã viết: “<strong><em>Với Cam Bốt, ai cũng biết rằng trái tim Biển Hồ chỉ còn đập khi con sông Tonle Sap còn duy trì được dòng chảy hai chiều theo mùa</em></strong><strong><em>”</em></strong>. Chính tôi – Phạm Phan Long, khi viết thư gửi TT Obama <a href="#_ftn5" id="_ftnref5" name="_ftnref5" title=""> </a><a href="#_ftn6" id="_ftnref6" name="_ftnref6" title=""> </a> năm 2016 để nhấn mạnh sự quan trọng của Biển Hồ, chuẩn bị cho ông kiến thức về Mekong trước khi thăm viếng Việt Nam, tôi đã mượn văn phong của Ngô Thế Vinh để diễn tả tình trạng lưu vực. </p>
<p>“<em>Đến thăm Việt Nam, bạn sẽ chứng kiến thảm họa do tác động tổng hợp của biến đổi khí hậu và sự phát triển liều lĩnh hiện rõ. Sông M</em><em>eko</em><em>ng là nơi sinh sống của 65 triệu người. </em><strong><em>Hồ Tonle Sap, </em></strong><strong><em>k</em></strong><strong><em>hu dự trữ sinh quyển của</em></strong><strong><em> hành tinh</em></strong><strong><em> được</em></strong><strong><em> UNESCO</em></strong><strong><em> Liên</em></strong><strong><em> hiệp q</em></strong><strong><em>uốc chỉ định là</em></strong><strong><em> Khu Bảo Tồn Sinh Thái của thế giới</em></strong><strong><em> và ở đó nhịp lũ kỳ diệu theo mùa rất quan trọng đối với chức năng của hệ sinh thái </em></strong><strong><em>của dòng </em></strong><strong><em>sông</em></strong><em>. Nhịp lũ giúp giảm l</em><em>ụt </em><em>vào mùa</em><em> mưa </em><em>và bổ sung nguồn</em><em> nước </em><em>cho sông Mekong vào mùa khô. Vùng</em><em> Châu thổ Tonle Sap của Cam Bốt và Đ</em><em>ồng Bằng</em><em> Sông Cửu Long</em><em> của Việt Nam sẽ chết nếu không</em><em> còn </em><em>nhịp</em><em> đập của</em><em> lũ</em><em>”</em><em>.</em></p>
<p>Không chỉ có tôi, năm 2019 nhà báo người Anh Tom Fawthrop viết trên tạp chí Diplomat và TS Brian Eyler viết trên NPR, cũng đều gọi Biển Hồ là <strong><em>The </em></strong><strong><em>beating heart of the Mekong</em></strong><a href="#_ftn7" id="_ftnref7" name="_ftnref7" title=""> </a><a href="#_ftn8" id="_ftnref8" name="_ftnref8" title=""> </a>, trái tim đập nhịp của sông Mekong. Nhà văn Ngô Thế Vinh đã gởi được linh hồn Biển Hồ và Mekong vào tư tưởng của độc giả, vào ngòi bút các nhà báo và biên khảo của các nhà khoa học quốc tế.</p>
<p>Bước vào chủ đề sông Mekong là một thách thức lớn cho trí tuệ, thật đúng như thế, vì không phải chỉ là dòng nước dài 4.800 km, lượng chảy 475 km3 hàng năm ra biển mà nhà văn Ngô Thế Vinh đã phải vất vả theo dõi, mổ xẻ và khảo cứu, kể cả lăn lội vào những phạm trù khoa học chuyên môn cao nhất và mới nhất suốt gần 30 năm qua. Anh đã đưa độc giả theo bước chân anh lên thượng nguồn và lần xuống tận cửa biển để nắm bắt bối cảnh địa lý, rồi đưa chúng ta trở về thời Trung cổ Chân Lạp từ hơn 1500 năm trước cho đến hiện đại để chúng ta hiểu rõ bối cảnh lịch sử phần xác và nền văn minh phần hồn của các dân tộc lưu vực.</p>
<p>Anh nhận thức ra có một điều gì cao quý rất cần nhưng thiếu vắng là nguyên nhân sâu xa gây chia rẽ lưu vực, anh đã đi tìm thấy gọi được tên là “<strong>Tinh thần Sông Mekong<a href="#_ftn9" id="_ftnref9" name="_ftnref9" title=""> </a></strong>” như một mẫu số chung; thiếu Tinh thần này, các dân tộc cùng lưu vực không thể xây dựng một nền Văn hoá Hoà bình / Culture of Peace và hợp tác để cùng phát triển. Thiếu Tinh thần này tất cả các điều khoản cao đẹp trong Hiệp định Mekong 1995 như bảo vệ môi trường, sử dụng nguồn nước chừng mực hợp lý, bảo vệ lưu lượng dòng chính, không gây thiệt hại, thông báo và thỏa hiệp, dù đã long trọng ký kết và liên tục tuyên truyền như các tôn chỉ, vậy mà cho đến nay Lào đã xây xong đập Xayaburi và Don Sahong, chuẩn bị xây thêm Pak Lay, Pak Beng, Luang Prabang và Sanakham, tất cả tôn chỉ trên là những lời dối trá kịch tính với nhau các phe cùng biết rõ như thế. Khả năng Tinh thần Sông Mekong này được sáu nước tôn trọng và tuân thủ thật xa vời. Nhưng Ngô Thế Vinh vẫn xác tín với niềm hy vọng tinh thần này sẽ có ngày được cả lưu vực hưởng ứng và tôn trọng.</p>
<p>Ngô Thế Vinh là nhà văn bên ngoài không có tác phẩm nào xuất bản trong nước sau 1975. Mặc dù sách của anh đã được một số nhà xuất bản trong nước đề nghị hợp tác nhưng đều không thành vì anh không chấp nhận một điều kiện kiểm duyệt hay chỉnh sửa chính trị nào. Tuy vậy, cụm từ “<strong><em>Cửu Long cạn dòng Biển Đông dậy sóng”</em></strong> tựa đề tác phẩm đồ sộ hơn 600 trang và <strong>“Mekong Dòng sông nghẽn mạch” </strong>trên 300 trang của NTV lại không xa lạ với những người Việt trong nước tuy họ chưa có được sách của anh và không biết tác giả là ai. </p>
<p>Nhà văn Ngô Thế Vinh đã cống hiến cho chúng ta những tác phẩm văn học nổi tiếng bên cạnh những công trình khảo cứu văn hóa môi sinh lịch sử đồ sộ, và anh đã gieo hạt giống “<strong>Tinh thần Sông Mekong”</strong> như một lý tưởng cao đẹp cho 65 triệu người chung sống bên dòng sông hùng vĩ thứ 11 của thế giới. </p>
<p><strong>Phạm Phan Long, P.E.</strong><br />
Mission Viejo, CA <br />
November 14, 2023<br />
[Trích Ngôn Ngữ 01.2024, Ngô Thế Vinh, bằng hữu và văn chương]</p><p><br /></p>
<p><strong>PHẠM</strong><strong> PHAN LONG P.E. </strong><strong> </strong><strong> </strong></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi359kI2EQV5PsG7FIHu-EAdJ4gahMQ_wV7YTnQV27l5yGV-m8m-FU5ScvFgmkrI5HUoqs-RvlKfoMws_xyoFtwoZfsofynzvm7xJ1kS7OrVgfQqvERsYQkutdy_ED3zQJEqFz3qP_fFVR9nHnSkqR3l2q-QOHbSvDyVDGkysJzp1qbut0oNVotkZdDIUM/s381/NTV_CauchuyenMekong-2.JPG" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="381" data-original-width="276" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi359kI2EQV5PsG7FIHu-EAdJ4gahMQ_wV7YTnQV27l5yGV-m8m-FU5ScvFgmkrI5HUoqs-RvlKfoMws_xyoFtwoZfsofynzvm7xJ1kS7OrVgfQqvERsYQkutdy_ED3zQJEqFz3qP_fFVR9nHnSkqR3l2q-QOHbSvDyVDGkysJzp1qbut0oNVotkZdDIUM/s320/NTV_CauchuyenMekong-2.JPG" width="232" /></a></div><p></p><p><strong>Chủ</strong><strong> tịch Hội Sinh Thái Việt /</strong><strong> Viet Ecology Foundation</strong><br />
Principal, Advanced Technologies Consultants, Inc. <br />
Air Quality Engineer, South Coast Air Quality Management District, California<br />
Thiết kế hệ thống giải nhiệt cho dự án GWR Advanced Water Treatment Plant. <br />
Cố vấn ASML, Abbot Lab, Genentech, ST Microelectronics, Kaiser Permanente, Solar Turbines, Hughes Research Laboratory, OCWD, UCSD, IVC, RCC, SBC Colleges. <br />
<em>Highest Value Saving Award, Hughes Aircraft Company; Engineer of the Year, AIPE, San Diego, California; Industrial Water Conservation Award, San Diego County Water Authority Facilities Management Excellence Award, AIPE, USA</em>
</p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-70123302717619096172023-12-08T23:28:00.000-08:002023-12-08T23:28:27.700-08:00LÁ THƯ CHỦ BÚT TOÀ SOẠN NGÔN NGỮ<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgfoOF3ITiCwysPcZMwALt319_xENmkt4tM2v1QjOsh3bfdcID6BB1lMaoVvpkg1tZtruRk5xj8eup5tgpSC265w8WdhJJpGF6NbjOQuEXhIgIGHxWhl0EayKNgfm2lr0I8-D-4DH-m5GMHRsrpptgO-pVbZPl2Sb-XFzC_kqz1f_orekcOdfOjq8IxDs0/s1053/LaThuToaSoan.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="849" data-original-width="1053" height="323" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgfoOF3ITiCwysPcZMwALt319_xENmkt4tM2v1QjOsh3bfdcID6BB1lMaoVvpkg1tZtruRk5xj8eup5tgpSC265w8WdhJJpGF6NbjOQuEXhIgIGHxWhl0EayKNgfm2lr0I8-D-4DH-m5GMHRsrpptgO-pVbZPl2Sb-XFzC_kqz1f_orekcOdfOjq8IxDs0/w400-h323/LaThuToaSoan.jpg" width="400" /></a></div><p>NGÔ THẾ VINH, BẰNG HỮU VÀ VĂN CHƯƠNG là tuyển tập đặc biệt thứ ba, do tạp chí Ngôn Ngữ hân hạnh đứng tên xuất bản và phát hành rộng rãi (sau hai tuyển tập Hoàng Ngọc Biên + Tô Thùy Yên, và Cung Tích Biền).</p>
<p>Đây là cuốn sách tập trung nguồn tư liệu từ nhiều người viết về một người, có tầm cỡ của Văn Học Việt Nam Cộng Hòa. Tác giả gốc miền Bắc, trưởng thành và dựng nghiệp tại miền Nam; với tay phải: Y khoa Bác Sĩ, tay trái: nhà văn. Cũng có thể ngược lại, vì cả hai thành công tuyệt vời như nhau. </p>
<p> Hiện tại ông hành nghề Y tại Hoa Kỳ, song song với việc viết văn cùng nghiên cứu về Dòng Sông Cửu Long, một công trình khảo sát tận hiện trường đầy tâm huyết, không dễ có người thứ hai thực hiện.</p>
<p> Ngôn Ngữ kính mời quý bạn đọc lưu giữ tác phẩm này trong tủ sách gia đình. Những bài giới thiệu, điểm qua nhiều tác phẩm của Ngô Thế Vinh, từ nhiều tác giả có uy tín chắc chắn sẽ làm vừa lòng quý vị.</p>
<p><strong>NHÀ THƠ LUÂN HOÁN</strong></p>
<strong>Montréal, 01.2024</strong>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-78749105144634659072023-12-08T23:22:00.000-08:002023-12-08T23:22:33.760-08:00TUỔI THƠ VÀ CON SÔNG TONLÉ SAP TRÊN XỨ CHÙA THÁP 2/3 THẾ KỶ TRƯỚC<p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgTfOt2UZ3xx56nhtneItMVphhNIbgimk8PFGkSyTfqnqpv4R351Smv9yq-LiaUWAqc498bc5YnLTlxrkAukN7KTjnAjvMVZso6xlmZE2luRVBZk7D1giAlw1FEDmbtPp2J8t6J1zay-iyguNQ9CzpmC1XX8gJPz3v33-cyJzmAHGMNhx8uHu_5KCfncVk/s444/BS_VanVanCua.JPG" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="322" data-original-width="444" height="290" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgTfOt2UZ3xx56nhtneItMVphhNIbgimk8PFGkSyTfqnqpv4R351Smv9yq-LiaUWAqc498bc5YnLTlxrkAukN7KTjnAjvMVZso6xlmZE2luRVBZk7D1giAlw1FEDmbtPp2J8t6J1zay-iyguNQ9CzpmC1XX8gJPz3v33-cyJzmAHGMNhx8uHu_5KCfncVk/w400-h290/BS_VanVanCua.JPG" width="400" /></a></div><p></p><p><em>BS Văn Văn Của,</em><em> sinh năm 1927 tại Phnom Penh, học Trung học ở Lycée</em><em>Siso</em><em> Wath PhnomPenh. Về Sài Gòn 1949, học Tú tài tại Chasseloup Laubat tới 1949. Vào Đại học Y khoa Sài Gòn 1950, tốt nghiệp Y khoa 1957. Y sĩ Đại tá Y sĩ trưởng Sư đoàn Nhảy Dù 1957-1964. Đô Trưởng Sài Gòn - Chợ Lớn 1965-1968. Cao Học Y Tế công cộng /MPH Tulane University 1970. Viện Trưởng Viện Quốc gia Y Tế Công Cộng từ 1973-1975, kiêm đặc trách các trại tỵ nạn chiến tranh Long Thành và Phú Quốc cho tới 1975. Vì chức vụ sau cùng này, mà Anh không thể ra đi. Sau 1975, Anh bị đi tù cải tạo 4 năm tới tháng 12/1979. Anh là</em><em> tác giả tập <strong>hồi ký “Mộng Không Thành”</strong>,</em><em> do Tạp chí Y Tế xuất bản năm 2000. N</em><em>hững năm cuối đời</em><em>, BS Văn Văn Của</em><em> sống</em><em> ở Pháp</em><em> và mất</em><em> ngày 17.08.2003</em><em> tại</em><em> Orsay, vùng tây nam ngoại ô Paris, thọ 76 tuổi.<span></span></em></p><a name='more'></a><em> </em><p></p>
<p style="text-align: center;"><em>*</em></p>
<p><em>Bác sĩ Văn Văn Của là vị đàn anh rất xa của tôi trong trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn. Anh ra trường năm 1957, khi tôi chưa vào trường Y. Tôi ra trường 1968 sau Anh 11 năm. Trước 1975, tôi hoàn toàn không có dịp gặp hay quen Anh. Nhưng sau 1975, do “cùng một lứa bên trời lận đận” tôi gặp Anh Của khi cả hai vừa ra tù (1979). Anh Của thì về làm việc bên Viện Da Liễu do Anh từng là Nội trú chuyên khoa Da liễu tại Bệnh viện Bình Dân 1954-1955, còn tôi do có một thời gian học ở Mỹ về chuyên khoa Y Học Phục Hồi, nên về làm ở Viện Quốc Gia Phục Hồi, 70 Bà Huyện Thanh Quan, Sài Gòn và hai nơi không xa nhau. Biết danh tiếng Anh Văn Văn Của qua những huyền thoại: Anh là một Y sĩ hiếm hoi có bằng Nhảy Dù Điều khiển đầu tiên. Anh từng là Đô trưởng Sài Gòn - Chợ Lớn, một chức vụ tương đương với Bí Thành Uỷ Sài Gòn Võ Văn Kiệt sau này. Anh Văn Văn Của có quý tướng - Hầu tướng, Anh có dáng của một con gấu, nhưng lại vô cùng giản dị. Lớn lên trong nền văn hoá Pháp nhưng Anh có tất cả dáng vẻ chân quê của một nông dân Miền Tây, vạm vỡ hiền lành và tự tin. Sau 1975, vật bất ly thân và cũng là gia tài của Anh là chiếc xe đạp cũ kỹ, có porte-bagages phía sau, trông xấu xí nhưng lại rất đa dụng: khi thì chở bó củi nhỏ, khi thì vài ký gạo, hoặc hiếm hoi có thêm một khẩu phần thịt heo bồi dưỡng bán giá nhà nước cho công nhân viên. </em></p>
<p><em>Sau khi đọc tác phẩm <strong>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng</strong> của Ngô Thế Vinh, Bác sĩ Văn Văn Của cho biết <strong>“Nó gợi cho tôi nhiều kỷ niệm”</strong>. Sau đây là những dòng tùy bút của BS Văn</em><em> Văn </em><em>Của</em><em> gửi cho tác giả, kể lại</em><em> những ngày thơ</em><em> ấu</em><em> bên bờ con s</em><em>ô</em><em>ng</em><em> Tonlé Sap</em><em> trên Nam Vang cách đây ngót</em><em> 2/3 thế</em><em> kỷ. </em> </p>
<p style="text-align: center;"><em>*</em></p>
<p> Tôi đã được sinh ra và lớn lên ngay trên bờ sông Tonlé Sap, ở cách Nam Vang chỗ sông bốn mặt [Quatre Bras] trước thành vua, 4 cây số. Nên cả một đời thiếu niên ở đó đến năm 1953 mới rời Phnom Penh về Sài Gòn học ở Chasseloup Laubat. </p>
<p> Tôi còn nhớ thời trung học, ra trường về đến nhà buổi chiều là mặc quần đùi chạy ngay ra sông nhảy ào xuống nước bơi lội, chơi với các bạn hàng xóm. </p>
<p>Như thế từ tháng 11 tới tháng Tư. Tháng Tư là tháng nước sông thấp nhất, một tháng trước mùa Mưa là tháng nước sông trong nhất và không ai dám xuống tắm vì là tháng có cá nóc [tétraodon], nó hay thiến mất cái đầu “prépuce”[da quy đầu] của trẻ con. Nó cũng có cắn các chỗ khác nhưng “prépuce” của trẻ con là nó thích nhất! Vì trẻ con tắm sông thường ở truồng. Mà cũng là mùa nước sông Mekong và Tonlé Sap trong nhất.</p>
<p>Từ tháng Năm là bắt đầu mùa Mưa, nước đục lần lần, càng ngày càng dâng cao và chảy vào Biển Hồ, là bắt đầu mùa nước lớn, nước chảy càng ngày càng mạnh. </p>
<p> Đến đầu tháng Mười là chậm lại lần cho đến tháng 11 là nước dòng sông cao nhất. </p>
<p> Chỗ tôi ở mực nước mùa thấp và mực nước mùa cao khác nhau đến 7 thước. Tôi nhớ là hình như ngày Rằm tháng 11 là nước cao nhất và bắt đầu chảy ra biển và cũng là ngày Lễ Đưa Nước [Bom Oum Touk] ở Nam Vang. Ngày đó nghỉ học để học trò đi coi Vua xuống nhà Thủy tạ làm lễ và khai mạc cuộc đua thuyền. </p>
<p> Nhưng với dân Việt ở chùm nhum dài theo con sông Tonlé Sap, tháng 11 là sắp sửa mùa cá nghĩa là ra giữa sông căng lưới bắt cá theo dòng nước từ Biển Hồ ra. Rất nhiều cá. Trong 6 tháng Biển Hồ ngập trước đó, cá vào đó đẻ trứng lớn lên, rồi lúc nước rút, cá theo dòng nước mà ra.</p>
<p>Vì theo Phật giáo, người Miên kỵ sát sinh mà lại làm mắm cá để dành ăn quanh năm. Thế là dân Việt làm lưới bắt cá đem vào đổi lấy thóc của người Miên. Người Miên không sát sinh nên họ thuê người Việt cắt đầu cá. Xong rồi họ mới đem cá xuống sông đạp cho thật sạch rồi mới đem lên muối , dồn vào bao cát chở về nhà. </p>
<p> Mùa cá họ đi cả làng, một đoàn cả chừng vài trăm xe bò. Dân Việt nhà nào cũng dọn một bãi đất trống để cho họ vào thuê cả hai tuần. Rồi cả gia đình ra cắt đầu cá thuê. Đầu cá và ruột cá mỗi ngày được gom lại cho vào một cái chảo lớn nấu để lấy “dầu cá”. </p>
<p>Đến cuối mùa cá, người Tàu đưa những ghe chài cỡ 10 tấn đi mua góp “dầu cá và lúa”. Tuy không phải ở đồng quê mà nhà nào cũng có bồ lúa lớn. Chưa hết, xác đầu cá nấu rồi, lọc ra lấy dầu, còn lại họ đổ vào khuôn tre đan, ép thành bánh, phơi khô bán như phân cá. Thứ này làm hôi cả vùng, nhưng ở lâu ngày thành quen. Đến đầu tháng Chạp mới hết mùa cá, lo quét dọn sạch sẽ, là đến ngày Tết ta. </p>
<p>Nhưng mà giữa Việt và Miên có cái thù truyền kiếp. Lâu lâu lại nổi lên phong trào đòi độc lập. Thế là nhà Vua và chính quyền Bảo hộ Pháp lại “désinformer” [thông tin sai lạc], biến ra phong trào bài ngoại. </p>
<p> Ở Miên có Pháp, Chàm, Tàu và Việt nhưng <strong>phong trào bài ngoại bao giờ cũng hướng về Việt</strong>. <strong>Đó là lúc nổi lên phong trào “cáp duồn” [chặt đầu Việt Nam].</strong> Những người Việt ở xa làm ruộng, gần các làng Miên sẽ là những nạn nhân đầu tiên. Thành người Việt ở Cao Miên có khuynh hướng ở lại tập trung với nhau để tự phòng thủ bảo vệ.</p>
<p>Ở Cao Miên thời bấy giờ (1935 – 1945) có một cộng đồng người Nam Kỳ rất đông, phần nhiều theo Công giáo để được các cha cố bảo hộ. Và chính quyền thuộc địa Pháp cho mỗi cha cố quyền khai thác một vùng lãnh thổ xung quanh nhà thờ, mà cha cố cho người Việt công giáo vào an cư lạc nghiệp. Thành thử chỗ tôi ở gọi là Village Catholique, dài theo bờ Tonlé Sap đến 6 – 7 cây số, mà trong đó có 5 nhà thờ lớn. Ở đó thì có an ninh không sợ “cáp duồn”…</p>
<p><strong>BS VĂN VĂN CỦA</strong> </p><p><strong><i>Les Ulis 28-05-02</i></strong></p>
Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-74896556898561118852023-11-02T18:23:00.005-07:002023-11-02T18:23:59.627-07:00PHÙ NAM TECHO CON KÊNH LỊCH SỬ VÀ NHỮNG BƯỚC TIẾN HÀNH DỰ ÁN GIỮA TRIỀU ĐẠI CHA VÀ CON<p></p><div style="text-align: center;"><em>Biết mình biết người, trăm trận không nguy</em></div><div style="text-align: center;">Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bất đãi – Tôn Tử </div><div style="text-align: center;">知己知彼, 百戰不殆_孫子</div><p></p>
<p></p><div style="text-align: center;">Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL</div><div style="text-align: center;">không được quyền cất tiếng nói</div><div style="text-align: center;">Gửi Nhóm Bạn Cửu Long</div><p></p>
<p style="text-align: center;"><strong>NGÔ THẾ VINH </strong><strong> </strong></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgeU_gs6qa5pAgKNOi2dU5jlT3_NdvLt193JoVCEHks_zWt9zNHkKssq9QcC18urNv1nCdWdys4QFzAWMhCowpRpNMgu51BWSBI98hwzH3aY-bwzjb6oNqhZZYbbqrqs7DXcGZ1n7Mwvi6tJSFdF15Z_v8i0rPLuYiNqe4zoIpHDdSyJ9h89x5VYMEKqSM/s620/6447-1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="410" data-original-width="620" height="265" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgeU_gs6qa5pAgKNOi2dU5jlT3_NdvLt193JoVCEHks_zWt9zNHkKssq9QcC18urNv1nCdWdys4QFzAWMhCowpRpNMgu51BWSBI98hwzH3aY-bwzjb6oNqhZZYbbqrqs7DXcGZ1n7Mwvi6tJSFdF15Z_v8i0rPLuYiNqe4zoIpHDdSyJ9h89x5VYMEKqSM/w400-h265/6447-1.jpg" width="400" /></a></div><p></p><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 1: </em></strong><em>Viễn cảnh một ĐBSCL khô hạn và sa mạc hoá, không lẽ đây là “gia tài của mẹ”, một di sản thế hệ này để lại cho các thế hệ con cháu trong tương lai. Đây là cái giá rất đắt mà Việt Nam phải trả cho chuỗi những con đập thuỷ điện thượng nguồn và các dự án chuyển dòng lấy nước từ con sông Mekong, trong đó có con Kênh Phù Nam Techo. (nguồn: photo by TTXVN / Vietnam+, cảnh hạn hán trên một cánh đồng lúa vốn phì nhiêu của tỉnh Sóc Trăng 03/2016) </em></p>
<p><strong>MỘT TRIỀU ĐẠI CHA VÀ CON</strong></p>
<p>Hun Sen đã chính thức chuyển quyền cho con từ ngày 22/8/2023. Tuy Hun Manet là Thủ tướng mới nhưng Hun Sen vẫn có một ảnh hưởng gần như tuyệt đối từ phía sau hậu trường. Hun Sen viết trên trang Facebook – <strong><em>“Đây chưa phải là kết thúc. Tôi còn tiếp tục phục vụ ở những cương vị khác ít nhất cũng tới năm 2033</em></strong><em>” (tức là mười năm nữa, lúc đó Hun Sen 81 tuổi).</em> Tìm hiểu về <strong>giới lãnh đạo bao gồm hai thế hệ Cha và Con</strong> của chính trường Cam Bốt hiện nay và ít ra trong 10 năm tới thiết nghĩ là điều rất cần thiết.<span></span></p><a name='more'></a> <p></p>
<p><strong>_ Tiểu sử Hun Sen: </strong>Sinh năm 1952 tại một ngôi làng nhỏ thuộc tỉnh Kampong Cham bên bờ sông Mekong, nhưng khai sinh sớm hơn [4/4/1951], để đủ tuổi gia nhập Khmer Đỏ. Tên thật là Hun Bunal, học vấn qua bậc tiểu học, sau đó tham gia các phong trào tranh đấu. Có gốc là sĩ quan Khmer Đỏ, với cấp bậc Tiểu Đoàn trưởng vào những năm 1970s. Bị chiến thương hư một mắt trái khi theo Pol Pot tấn công thủ đô Phnom Penh tháng 4/1975. Để tránh một cuộc thanh trừng của Khmer Đỏ, Hun Sen đào ngũ năm 1977 sang chiến đấu trong quân đội Việt Nam. Hun Sen nói được tiếng Việt với “accent Khmer” và có tên Việt là Hai Phúc. Khi hơn 100 ngàn quân CS Việt Nam tràn qua Cam Bốt, lật đổ được chính quyền Khmer Đỏ, Hun Sen được Việt Nam đưa lên làm Ngoại trưởng trong một chính phủ mới do Việt Nam thiết lập. Lúc đó Hun Sen mới 27 tuổi, rồi trở thành Thủ tướng Cam Bốt từ tháng 1/1985 lúc mới 33 tuổi, được coi là trẻ nhất, và giữ ghế Thủ tướng lâu nhất không chỉ ở châu Á mà cả với thế giới hiện nay. Hun Sen thống lĩnh chính trường Cam Bốt và là khuôn mặt lớn của khối ASEAN trong mấy thập niên qua. </p>
<p> Hun Sen lãnh đạo <em>Đảng Nhân Dân Cam Bốt</em><em> / CPP</em>, được giới ngoại giao và báo chí coi như một thứ “Người Hùng”. </p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjoVVD392iAg6nXe7SQmzEFsh6OsLYAFuAQRDXyEbpw9XSd2T0x8gjbUJkhurL8E4czJiII-vwsP2Ae_zJ10ddfTCL0GZenWgeEV08R1xQDHPGVW4bDAvSvWD8IIPadfpe_5thRACbCt4sCqbJGiDhMBuRSsix-y9FnR25PsC94t3faJ6SOK6fsNATj8fI/s604/6447-2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="604" data-original-width="563" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjoVVD392iAg6nXe7SQmzEFsh6OsLYAFuAQRDXyEbpw9XSd2T0x8gjbUJkhurL8E4czJiII-vwsP2Ae_zJ10ddfTCL0GZenWgeEV08R1xQDHPGVW4bDAvSvWD8IIPadfpe_5thRACbCt4sCqbJGiDhMBuRSsix-y9FnR25PsC94t3faJ6SOK6fsNATj8fI/w373-h400/6447-2.jpg" width="373" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 2: </em></strong><em>Hun Sen từng tham gia lực lượng Khmer Đỏ những năm 1970s với cấp bậc Tiểu Đoàn Trưởng. </em><em>B</em><em>ị</em><em> chiến</em><em> thương hư một mắt</em><em> trái</em><em> khi theo Pol Pot tấn công thủ đô Phnom Penh tháng 4</em><em>/</em><em>1975. Sợ</em><em> bị Khmer Đỏ thanh trừng, Hun Sen </em>đào ngũ năm 1977 tham gia chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Việt Nam, có tên Việt là Hai Phúc.<em> (nguồn: The New York Review 23/7/2012)</em></p>
<p>Năm 1987, Hun Sen bị <em>Amnesty International</em> lên án vi phạm nhân quyền vì các vụ tra tấn tù nhân chính trị. Từng bị các đối thủ lên án là “bù nhìn” của Hà Nội, nhưng thực tế Hun Sen đã rất bản lãnh và độc lập khi <em>chọn</em><em>tách ra khỏi Việt Nam và</em><em> đưa</em> <em>đất nước Cam Bốt đi</em><em>vào quỹ đạo của Bắc Kinh</em>. Nổi tiếng cai trị bằng đôi bàn tay sắt, nhưng cũng không thiếu tai tiếng về các vụ tham nhũng về đất đai, dầu khí và các hợp đồng khai thác tài nguyên của Cam Bốt. </p>
<p> Sẽ thiếu sót, nếu không ghi nhận ở đây, trong thời gian làm Thủ tướng, Hun Sen đã nhận được khoảng hơn 10 học vị <em>Tiến sĩ Danh dự</em> từ các đại học khác nhau trên khắp thế giới, trong đó có <strong>2 học vị Tiến sĩ của Hà Nội</strong>: một về Chính trị học (1991), và một về khoa Giáo Dục (2007); chưa kể tới hàm Giáo sư về khoa Bang giao Quốc tế của một Đại học Costa Rica, Trung Mỹ. Với từng ấy quyền lực và hào quang, Hun Sen được Quốc vương Sihanouk phong cho phẩm tước cao quý “Samdech” [Wikipedia] và còn được mệnh danh là <strong>“</strong><em>Đứa Con của Đế quốc Khmer / The Son of the Khmer Empire</em><strong>”</strong>.</p>
<p><strong>_ Tiểu sử Hun Manet: </strong>Hun Manet với tước hiệu đầy đủ là: <strong>Samdech Moha Bovorthipadi Hun Manet</strong>, sinh ngày 20/10/1977 một tướng lãnh quân đội Hoàng gia và chính khách thuộc thế hệ thứ hai của Cam Bốt sau thời kỳ Khmer Đỏ. Hun Manet học trung học tại Phnom Penh. Năm 1995, ở tuổi 18, gia nhập Quân đội Hoàng gia Cam Bốt. Cùng năm, Hun Manet được nhận vào Học viện Quân sự West Point nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ. Tốt nghiệp West Point 4 năm sau ở tuổi 22 (1999) với học vị Cử nhân, là người Khmer đầu tiên tốt nghiệp học viện này. Manet có thêm hai bằng cấp về Kinh tế: Thạc sĩ M.A. Đại học New York và Tiến sĩ Ph.D. Đại học Bristol Anh Quốc. <strong> </strong></p>
<p> Hun Sen đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng trước khi quyết định chuyển quyền cho con trai Hun Manet với đầy đủ mọi nghi thức trước đó: ngày 7/8/2023, Vua Norodom Sihamoni đã ký văn bản chính thức bổ nhiệm Hun Manet làm Thủ tướng kế vị Hun Sen, để thành lập nội các mới với điều kiện được Quốc hội thông qua. Dĩ nhiên phiên họp Quốc hội khoáng đại lần thứ 7 đã bỏ phiếu thuận với đa số tuyệt đối ngày 22/8/2023 cũng là ngày Hun Manet tuyên thệ nhậm chức. </p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjm96iJWW8r6oKBlkV0MprBiksQjegEW5yQDVl7lZti6QgfI2PdlEzoohOFf8BKqUYQ0s5Z_DaA7ewXpJezjkwuvYk-X2cQBDPt03PULRapzIUW1rYXbM5n-JxPEHR8RWmPCMbETxIEcDbLrYyAWM2QZfTHg5NDPln3kU5QbkgqiOLM_CBPccViOul44Ak/s627/6447-3.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="627" data-original-width="442" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjm96iJWW8r6oKBlkV0MprBiksQjegEW5yQDVl7lZti6QgfI2PdlEzoohOFf8BKqUYQ0s5Z_DaA7ewXpJezjkwuvYk-X2cQBDPt03PULRapzIUW1rYXbM5n-JxPEHR8RWmPCMbETxIEcDbLrYyAWM2QZfTHg5NDPln3kU5QbkgqiOLM_CBPccViOul44Ak/s320/6447-3.jpg" width="226" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 3: </em></strong><em>Hun Manet tốt nghiệp Học viện West Point, New York tháng 5/1999, cũng là người Khmer đầu tiên xuất thân từ học viện quân sự danh tiếng này của Hoa Kỳ. (nguồn: AP)</em></p>
<p>Không giống như thân phụ trưởng thành và vươn lên từ một đất nước Cam Bốt tao loạn và chiến tranh, Hun Manet được lớn lên trong một gia đình đã bước vào giai cấp quyền quý, được hưởng một nền giáo dục Tây phương sâu đậm với văn võ gần như song toàn. Nhưng xem ra, Hun Manet chưa đủ khả năng thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của thân phụ – ít nhất là ở những năm đầu, cho dù có ước muốn thay đổi hướng đi của Cam Bốt hay không. Giới quan sát am hiểu tình hình xứ Chùa Tháp cho đây là một ước đoán với kỳ vọng quá sớm. </p>
<p><strong>MỘT BẢO ĐẢM MỐI QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC </strong></p>
<p>Trong cuộc họp báo ngày thứ Tư, 26/7/2023 Hun Sen chính thức thông báo sẽ từ chức sau ngót 40 năm cầm quyền và Hun Manet sẽ là Thủ tướng mới của nội các. <strong><em>Chu đáo hơn nữa, Hun Sen trước đó còn gửi thư cho Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường / Li Qiang, với cam kết </em>đảm bảo sẽ tiếp tục mối liên hệ thắm thiết với Bắc Kinh sau khi chuyển quyền cho người con trai lớn của ông vào tháng tới. </strong></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTk8dJOmRZToZmeEwwD37VGvZd_tREVIaCgpNmuwIl_gA3xlZCOno06-X0xWR1ELEQQDb0Zp1MdS_y5RP1ZFzf9ZU37vJA7UosDJP-pxBgZxL7pu96qVmNwho9itkc550JRCw7mKqshvVK9IR8aBpf4b3F-8uLhoZJ5Vifu7F5TOVEByp6Dp1DwjA6Hm8/s481/6447-4.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="385" data-original-width="481" height="256" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTk8dJOmRZToZmeEwwD37VGvZd_tREVIaCgpNmuwIl_gA3xlZCOno06-X0xWR1ELEQQDb0Zp1MdS_y5RP1ZFzf9ZU37vJA7UosDJP-pxBgZxL7pu96qVmNwho9itkc550JRCw7mKqshvVK9IR8aBpf4b3F-8uLhoZJ5Vifu7F5TOVEByp6Dp1DwjA6Hm8/s320/6447-4.png" width="320" /></a></div><p></p><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 4a: </em></strong><em>Ngày 10/02/2023, Thủ tướng Hun Sen (giữa) dẫn người con trai cả là Hun Manet (trái), tới diện kiến Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải). Đây là lần đầu tiên có một cuộc viếng thăm chính thức của “<strong>cha và con”</strong> tới Bắc Kinh, chuẩn bị cho bước nhường ngôi cho con. </em>(nguồn: Hun Sen Facebook). </p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg5Wqbul1E5kbzXhayTPrzH8iOh9r6mgvkaZZHDsljjo_vkNeTIx2JGGexmi_vupJgaOU2thokg8h7uUcqpoljHA9OAyL3M4SwJ9H4HLC13n74_DGWp31bFIia0XbVyyLu-lKe5clLs5yaBRUrDzf54PRUfN3ZXas3hcbpmN3oNPkvnj-67PbYjr9SKRPc/s960/6447-4b.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="580" data-original-width="960" height="193" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg5Wqbul1E5kbzXhayTPrzH8iOh9r6mgvkaZZHDsljjo_vkNeTIx2JGGexmi_vupJgaOU2thokg8h7uUcqpoljHA9OAyL3M4SwJ9H4HLC13n74_DGWp31bFIia0XbVyyLu-lKe5clLs5yaBRUrDzf54PRUfN3ZXas3hcbpmN3oNPkvnj-67PbYjr9SKRPc/s320/6447-4b.jpg" width="320" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 4b: </em></strong><em>Ngày 14/9/2023, bảy tháng sau, Hun Manet chính thức viếng thăm Bắc Kinh lần thứ hai nhưng với cương vị là tân Thủ tướng Vương Quốc Cam Bốt. Hun Manet đã gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, với hứa hẹn sẽ thắt chặt hơn nữa mối giao hảo tốt đẹp đang có giữa hai quốc gia. Ngày 17/9/2023 Hun Manet tới thăm Hội chợ Triển lãm Trung Quốc và các Quốc gia ASEAN tại thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây. </em>(nguồn: Khmer Times)</p>
<p><strong>TRỤC PHNOM PENH – BẮC KINH </strong><br />
<strong>VÀ DỰ ÁN KÊNH PHÙ NAM </strong></p>
<p>Chiếu theo điều khoản 4.3.2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, tuy không một quốc gia nào có quyền phủ quyết nhưng Dự án Kênh Phù Nam Techo vẫn phải trải qua 3 giai đoạn: Thông Báo, Tham Vấn và Thỏa Thuận viết tắt là PNPCA. </p>
<p>_ Vậy Dự án Kênh Phù Nam Techo hôm nay đang ở giai đoạn nào? Tuy mới là Giai đoạn I, với Thủ tục Thông báo / Procedures of Notification tới các thành viên của 4 quốc gia trong MRC. Do Thái Lan và Lào là hai quốc gia phía trên nguồn, Dự án kênh Phù Nam Techo sẽ không ảnh hưởng xuyên biên giới trực tiếp tới hai quốc gia này nên họ không có nhiều quan tâm và có lẽ sẽ không phản đối. Kênh Phù Nam Techo trở thành vấn đề của hai nước láng giềng Việt Nam và Cam Bốt. Do Việt Nam ở phía cuối nguồn, giáp ranh với Cam Bốt nên <strong>ảnh hưởng xuyên biên giới / transboundary effects hiển nhiên là có thật</strong> nên đã làm dấy lên mối lo ngại về phía Việt Nam khi mà ĐBSCL đang thiếu nước và ngày càng bị nhiễm mặn. <strong>[4]</strong> </p>
<p>Nhận được Thông báo của Chính phủ Cam Bốt ngày 8/8/2023, lẽ ra là bắt đầu bước vào Giai đoạn II, mỗi nước thành viên có thời gian 6 tháng để Tham vấn trước /Prior Consultation. </p>
<p> Nhưng chính phủ Cam Bốt và các công ty xây dựng Trung Quốc đã rầm rộ khẩn trương tiến hành Dự án với liên tiếp những ký kết: </p>
<p><strong>_ Ngày 11/10/2023 lễ ký kết </strong><a href="https://www.harbor-property.com/news/detail/1801/progress-of-the-funan-techo-canal-project"><strong>Khung Thỏa thuận sơ bộ</strong></a><strong> [Framework Agreement] ở Nam Vang.</strong></p>
<p>Vào ngày 11/10/2023, Sun Chanthol Đệ nhất Phó Thủ tướng kiêm Phó Chủ tịch Hội đồng Phát triển Cam Bốt đã chủ trì một cuộc họp để thảo luận với ông <strong>Chu Dũng / Zhou Yong*</strong> đại diện Công ty Cầu Đường Trung Quốc (CRBC) về một bản dự thảo <strong>Khung Thỏa thuận</strong> <strong>FA / Framework Agreement</strong> về Dự án Hệ thống Tonle Bassac Thủy lộ và Hậu cần (Tonle Bassac Navigation & Logistics System Project) hay có tên là “Funan Techo Canal Project”. </p>
<p>Khung Thỏa thuận FA sau khi ký kết, sẽ được xem xét, để xác định tiềm năng của Dự án Kênh Phù Nam Techo qua các cuộc nghiên cứu sâu rộng không chỉ về giao thông đường thủy mà còn bao gồm mọi khía cạnh về những lợi ích kinh tế và xã hội. </p><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjojdvtX7PdJCpC8DHq0I6zvD8r99x9zBLRI0EiU4JWdhIAFL4eUbQZp9nYFh20CcEqwSatSpGgvm9AkCyoSovi2Hy4X6x3xWWlIlcBrC-DbbSfyNB2RVwvXKVlbmdxso2a-7iKlvDeAidK6zTiMj02aRUqkHXvSzDkCAfTHh6n-xLVXYbtGdYF0NcuyU8/s888/6447-5.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="592" data-original-width="888" height="266" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjojdvtX7PdJCpC8DHq0I6zvD8r99x9zBLRI0EiU4JWdhIAFL4eUbQZp9nYFh20CcEqwSatSpGgvm9AkCyoSovi2Hy4X6x3xWWlIlcBrC-DbbSfyNB2RVwvXKVlbmdxso2a-7iKlvDeAidK6zTiMj02aRUqkHXvSzDkCAfTHh6n-xLVXYbtGdYF0NcuyU8/w400-h266/6447-5.jpg" width="400" /></a></div><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEglYcLSou-VXVz2rt-J4f4T_r9pb5hNqvdcH-wwKPsltw_ZqSbJ-y5L1Am14b2S6B9gUJahyYUHUbT3zR2rXydngKolRFpRFzo5_sjVmu34jHWhUxVfrpWvLqFlLJgrMi30CHe-d51MHAoGC6x7zt-TBZiRdaqNOWL4QBn2Fgfu-SvP9UH_KWYEeivheMY/s527/6447-5b.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="351" data-original-width="527" height="266" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEglYcLSou-VXVz2rt-J4f4T_r9pb5hNqvdcH-wwKPsltw_ZqSbJ-y5L1Am14b2S6B9gUJahyYUHUbT3zR2rXydngKolRFpRFzo5_sjVmu34jHWhUxVfrpWvLqFlLJgrMi30CHe-d51MHAoGC6x7zt-TBZiRdaqNOWL4QBn2Fgfu-SvP9UH_KWYEeivheMY/w400-h266/6447-5b.jpg" width="400" /></a></div><p></p>
<p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 5:</em></strong><em> trên, ngày 11/10/2023, Đệ nhất Phó Thủ Tướng Cam Bốt Sun Chanthol đã chủ trì một phiên họp với ông Chu Dũng*, đại diện công ty Cầu Đường Trung Quốc [CRBC] để ký kết một Khung Thỏa thuận / Framework Agreement về Dự án Kênh Phù Nam Techo; dưới, <strong>Chu Dũng*</strong></em><em> là: Phụ tá Tổng Giám đốc Cầu</em><em> Đường</em><em> của Trung Quốc, kiêm Tổng Giám đốc các dự</em><em> án</em><em>cầu</em><em> đường</em><em> ở Cam Bốt</em><em>. </em>[nguồn: *SOHU, Beijing]<strong> [1]</strong></p>
<p><strong>_ Ngày</strong><strong> </strong><strong>17/10/2023, chỉ 6 ngày sau là lễ ký kết chính thức cấp chính phủ ở ngay tại Bắc Kinh.</strong></p>
<p> Ngày 17/10/2023, Vương quốc Cam Bốt đã ký một thỏa hiệp cho phép các công ty Trung Quốc thực hiện cuộc nghiên cứu tính khả thi của Dự án Kênh Phù Nam Techo. Lễ ký kết đã đặt <a id="_Hlk149396402" name="_Hlk149396402">dưới quyền chủ tọa của Thủ tướng Cam Bốt Hun Manet </a>vào chiều thứ Ba 17/10/2023 tại Bắc Kinh.</p>
<p> Phó Thủ tướng <a id="_Hlk149396358" name="_Hlk149396358">Sun Chanthol, kiêm Đệ nhất Phó Chủ tịch Ủy ban Phát triển Cam Bốt (CDC / Council of the Development of Cambodia) đã ký bản thỏa hiệp với các đại diện Công ty Cầu Đường của Trung Quốc (CRBC </a>/ China Road and Bridge Corporation). Chanthol nhấn mạnh, <em>“Lễ ký kết hôm nay là một bước khác tiến tới thành công trong dự án tiếp vận quan trọng của Cam Bốt”</em>. Ông hy vọng sẽ khởi công xây dựng dự án vào năm 2024</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiEBj0no4FmDdJcvSP1iv5_Qjy2zqNTT0nsgXPZ3at0m30LQe7TvcMkYmVkP4aX8LOqKu1pPUatFKXt4N2jxHunmsjBqhv4xN_2BIFpzrqLgh83FRBWKQkrLopRD_rWGsDxZ8mBMia07iIj5U8JSyeQBUmSgIuJO7-dfdGvUb1snE9BJ854N9fdfx4TFgc/s1280/6447-6.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="853" data-original-width="1280" height="266" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiEBj0no4FmDdJcvSP1iv5_Qjy2zqNTT0nsgXPZ3at0m30LQe7TvcMkYmVkP4aX8LOqKu1pPUatFKXt4N2jxHunmsjBqhv4xN_2BIFpzrqLgh83FRBWKQkrLopRD_rWGsDxZ8mBMia07iIj5U8JSyeQBUmSgIuJO7-dfdGvUb1snE9BJ854N9fdfx4TFgc/w400-h266/6447-6.jpg" width="400" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 6a:</em></strong><em> Chiều thứ Ba 17/10/2023 tại Bắc Kinh, đặt dưới quyền chủ tọa của Thủ tướng Cam Bốt Hun Manet, Phó Thủ tướng Sun Chanthol, kiêm Đệ nhất Phó Chủ tịch Ủy ban Phát triển Cam Bốt đã ký bản thỏa hiệp với các đại diện Công ty Cầu Đường của Trung Quốc cho phép họ thực hiện cuộc nghiên cứu tính khả thi của Dự án Kênh Phù Nam Techo.</em></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhowIaKCfQPJnxiEET6Q26BS4OGzCIEyzH8mcH5oso__hiB22naz-OH77caheb25E03Siq1AZkb7VXs2s0oWV8Qxsht8mx2Rm0193a0l2uDyHyiK-nXsjLtmLynzRXMPg-c6cg2O9rUCMIeAsRoiW9qIPIas8ZYw85zSkTrUNtVlGiWF0Dbb9iZNQOvoHo/s1280/6447-6b.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="818" data-original-width="1280" height="256" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhowIaKCfQPJnxiEET6Q26BS4OGzCIEyzH8mcH5oso__hiB22naz-OH77caheb25E03Siq1AZkb7VXs2s0oWV8Qxsht8mx2Rm0193a0l2uDyHyiK-nXsjLtmLynzRXMPg-c6cg2O9rUCMIeAsRoiW9qIPIas8ZYw85zSkTrUNtVlGiWF0Dbb9iZNQOvoHo/w400-h256/6447-6b.jpg" width="400" /></a></div><p></p><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 6b: </em></strong><em>Lễ ký kết cũng bao gồm cả các quan chức của Bộ Bưu điện và Viễn thông (MPTC / Ministry of Posts and Telecommunications) Cam Bốt với các đối tác của Công ty Kỹ thuật Viễn thông, tư vấn và quản lý công nghệ đa phương tiện Hoa Vi Trung Quốc (Huawei Technologies Co., Ltd.) </em><strong>[2]</strong></p>
<p>_ <strong>Ngày 25/10/2023, sau chuyến viếng thăm chính thức từ Bắc Kinh về, Hun Manet đã tới tỉnh Kampong Cham, trong một chương trình có tên “get-together / cùng gặp nhau”, và trước đông đảo các công nhân may mặc Khmer, Hun Manet đã rất tự tin và hùng biện khi nói về Dự án Kênh Funan Techo có tính cách lịch sử của dân tộc Khmer, sẽ đem lại cho đất nước Cam Bốt bao nhiêu phúc lợi về kinh tế / economic dividends. </strong></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgDVStIwUapzWiLyMF7mXfjRx_EiRs7oGdKREMxiM70D45MhaXSBeUJ5ospLcL-dKX2-gwcwmUPi1hnVPJfkVJT3b6-nxr4KIHtRB3kiqqYxOH4O0hoho6qrLTfrHplHGcqtTq7MGewaFas2B9l9vtW9tuK4CQc9j75qi9clK7IRGjtf0fkTTJFbcLr-ms/s723/6447-7.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="543" data-original-width="723" height="300" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgDVStIwUapzWiLyMF7mXfjRx_EiRs7oGdKREMxiM70D45MhaXSBeUJ5ospLcL-dKX2-gwcwmUPi1hnVPJfkVJT3b6-nxr4KIHtRB3kiqqYxOH4O0hoho6qrLTfrHplHGcqtTq7MGewaFas2B9l9vtW9tuK4CQc9j75qi9clK7IRGjtf0fkTTJFbcLr-ms/w400-h300/6447-7.jpg" width="400" /></a></div><p></p><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 7: </em></strong><em>Ngày 25/10/2023 Thủ tướng Hun Manet với phong cách rất bình dị và gần gũi khi tới tỉnh Kampong Cham thăm một xưởng may mặc, gặp gỡ đông đảo các công nhân nam nữ ở lứa tuổi thế hệ trẻ hơn ông, Hun Manet đã rất tự tin và hùng biện khi nói về Dự án Kênh Funan Techo có tính cách lịch sử, sẽ đem lại cho đất nước Cam Bốt bao nhiêu phúc lợi về kinh tế.</em> [nguồn: Khmer Times]</p>
<p>Dự án lịch sử thủy lộ vận tải đầu tiên của Cam Bốt nối liền hệ thống sông Mekong và đường biển, không chỉ có mục đích đơn thuần nhằm giải quyết những thách đố khó khăn trong lãnh vực vận chuyển đường thủy, nhưng xa hơn thế, đây là một Con Kênh Đa Năng / Multipurpose Canal với nhiều tham vọng, nhằm kích hoạt các hoạt động kinh tế và xã hội tới một tầm mức cao mới. Với tầm nhìn là bảo đảm sự độc lập có tính cách chiến lược cho một quốc gia nhỏ bé chỉ với ngót 17 triệu dân, ít hơn dân số ĐBSCL là 20 triệu.</p>
<p><strong>Với những bước tiến hành ồ ạt tới mức báo động về Dự án Kênh Phù Nam Techo về phía Cam Bốt, rõ ràng chính phủ Phnom Penh đã đốt 2 giai đoạn II (Tham vấn trước) và III (Thỏa thuận) và quyết tâm nhanh chóng bằng những bước “nhảy vọt” thực hiện cho bằng được dự án này, đặt Việt Nam trước một tình trạng đã rồi / <em>fait accompli</em>, trong khi Việt Nam vẫn trong giai đoạn thu thập ý kiến (25/10/2023) và rồi sẽ thảo luận giữa các chuyên gia, sau đó mới có tổng kết báo cáo lên Thủ tướng chính phủ. [sic] </strong></p>
<p><strong>DI SẢN HUN SEN: MỘT THẾ HỆ CHA ĂN MẶN</strong></p>
<p> Hun Sen đã để lại cho Hun Manet một di sản về môi sinh rất nặng nề và cũng không dễ dàng gì để chuyển đổi. Khi mà Hun Sen đã dứt khoát chọn đi với một “láng giềng xa” là Trung Quốc với bất cứ giá nào, với cái giá rất đắt mà các “láng giềng gần” phải trả, kể cả với chính đất nước Cam Bốt. </p>
<p><strong>Khi nói về những con đập dòng chính sông Mekong, Hun Sen đã có một tiếng nói </strong><strong>nhất quán</strong><strong> hậu thuẫn cho chuỗi những con đập bậc thềm Vân Nam / Mekong Cascades của Trung Quốc, và cả các con đập dòng chính ở Lào, cho dù điều đó đã đi ngược với tất cả mối quan tâm của các quốc gia hạ lưu khác, trong đó có Việt Nam là quốc gia cuối nguồn bị thiệt hại nhất. </strong></p>
<p><em>Ngay trên đất nước Cam Bốt, các khu rừng nguyên sinh / rainforest và rừng lũ / flood forest đã bị tàn phá rộng rãi, một Biển Hồ như trái tim của Cam Bốt chỉ còn một nhịp đập thoi thóp do thiếu nước, không còn 6 tháng với nước sông Mekong chảy ngược vào Biển Hồ, nơi cũng là vựa cá lớn nhất và là nguồn protein chính của người dân Cam Bốt. Tất cả ngày một cạn kiệt, chưa kể vấn nạn cả một hệ sinh thái bị ô nhiễm: nước, không khí và thực phẩm đang hàng ngày đầu độc người dân Cam Bốt.</em></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhLXpBpvQDvx2C57mIE0oVS2Y3SPPYDSvHlTPmj-7z08ppXFag9UnUgcn10AHisr07klbwQ6lw5TtvY1vgv4r8-Z6JzdzUAKAOlSSe42_5a0eovjEuySw6Y4kCT_ysqhMVh7Jgo-403ooINEjKsVNHFJfLfA0OpIJTSMZVOTbUc16Q_WueEXmNiBpKbjjU/s901/6447-8.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="644" data-original-width="901" height="458" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhLXpBpvQDvx2C57mIE0oVS2Y3SPPYDSvHlTPmj-7z08ppXFag9UnUgcn10AHisr07klbwQ6lw5TtvY1vgv4r8-Z6JzdzUAKAOlSSe42_5a0eovjEuySw6Y4kCT_ysqhMVh7Jgo-403ooINEjKsVNHFJfLfA0OpIJTSMZVOTbUc16Q_WueEXmNiBpKbjjU/w640-h458/6447-8.jpg" width="640" /></a></div><p></p><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 8: </em></strong><em>A</em><em>i cũng biết rằng trái tim Biển Hồ chỉ còn nhịp đập khi sông Mekong trong Mùa Mưa còn đủ nước đổ vào con sông Tonlé Sap tạo dòng chảy ngược vào Biển Hồ như một hiện tượng thiên nhiên kỳ diệu. Biển</em><em> Hồ </em><em>trong Mùa Khô chỉ với diện tích 2</em><em>.</em><em>500 km<a id="_Hlk149401580" name="_Hlk149401580">2</a>, nhưng từ tháng 5 đến tháng 9 bước sang Mùa Mưa, khi nước con sông Mekong dũng mãnh đổ về, khiến con sông Tonlé Sap đổi chiều, chảy ngược vào Biển Hồ làm nước hồ dâng cao hơn từ 8 tới 10 mét và tràn bờ; diện tích Biển Hồ tăng gấp 5 lần, khoảng hơn 12</em><em>.</em><em>000 km2. </em></p>
<p>Những <em>cánh rừng lũ / flooded forest</em> của Biển Hồ là cái nôi nuôi dưỡng và tái sinh nguồn thực phẩm khổng lồ chủ yếu là cá, chiếm tới hơn 60% lượng cá của Cam Bốt. <strong>Chính con sông Mekong và Biển Hồ từng là cái nôi của nền </strong><strong>V</strong><strong>ăn minh Angkor Khmer và nay vẫn là mạch</strong><strong> sống / lifeline của 17 triệu dân</strong><strong> xứ Chùa Tháp</strong>.</p>
<p> Thủ tướng Hun Sen, thì vẫn bình chân như vại trong suốt ngót 40 năm cầm quyền, với ông thì chẳng có gì phải lo lắng. Hồi tháng 6 năm 2005, nhân buổi lễ thả cá giống vào một hồ phía đông Cam Bốt, Hun Sen đã tỏ ra thỏa mãn với tình hình khai thác con sông Mekong lúc bấy giờ. <strong>Trước khi bay sang dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Côn Minh, ông đã công khai lên tiếng ủng hộ Bắc Kinh đối với kế hoạch khai thác sông Mekong, cho dù điều ấy đi ngược lại ý kiến quan ngại gần như báo động của các chuyên gia bảo vệ môi sinh. Đi xa hơn thế nữa, ông Hun Sen còn cho rằng ý kiến chỉ trích chỉ để chứng tỏ là họ chú ý tới môi sinh, và đôi khi họ dùng đó như thứ rào cản nhằm ngăn chặn sự hợp tác nên có giữa 6 quốc gia.</strong> [AFP, 6/29/05].</p>
<p>Ngày 17/11/2010, tại thủ đô Nam Vang bên bờ con sông Tonle Sap, một lần nữa Thủ tướng Hun Sen, sau Hội Nghị Thượng Đỉnh ACMECS <em>[Ayeyawady-Chao Phraya-Mekong Economic Cooperation Strategy]</em> gồm 5 nước Cam Bốt, Miến Điện, Lào, Thái Lan và Việt Nam, đã phủ nhận và bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng của các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy sông Mekong. Ông khẳng định rằng chu kỳ lũ lụt hay hạn hán mới đây là hậu quả của thay đổi khí hậu chứ chẳng liên hệ gì tới chuỗi những con đập thủy điện của Trung Quốc. </p>
<p> Khi nói chuyện với các phóng viên báo chí, Hun Sen đã “giễu cợt / mocked” họ về các ý tưởng cho rằng các con đập trên thượng nguồn sông Mekong đưa tới hậu quả làm tụt giảm mực nước có tính cách lịch sử trong thời gian vừa qua. Như một thách đố, ông đưa ra câu hỏi: “<em>Liệu mực nước lên xuống dọc theo sông Mekong có phải là do các đập thủy điện hay không?</em>” Rồi cũng rất tự tin, ông Hun Sen tự đưa ra câu trả lời bằng những con số: “Năm 1998, mực nước sông Mekong tụt thấp tới mức kỷ lục 7,5 mét, nhưng tới năm 2000, mực nước lại cao tới 12 mét.</p>
<p><em>Cần mở một dấu ngoặc ở đây về hai thời điểm mà ông Hun Sen nêu ra:</em> </p>
<p><em>_ Năm 1998, đã có con đập thủy điện lớn đầu tiên của Trung Quốc chắn ngang dòng chính sông Mekong: đập Mạn Loan / Manwan 1</em><em>.</em><em>500 MW hoàn tất từ 1993, tiếp tục lấy nước và hoạt động toàn công suất từ 1995; lại thêm con đập thứ hai Đại Chiếu Sơn / Dachaoshan 1</em><em>.</em><em>350 MW cũng đang được xây cất. Không đủ mưa, lại bị giữ nước trong hồ chứa, đã khiến mực nước hạ lưu sông Mekong xuống rất thấp tới 7</em><em>,</em><em>5 mét.</em> </p>
<p><em>_ Năm 2010, mực nước lại xuống thấp tới mức kỷ lục trong vòng 50 năm qua ở vùng đông bắc Thái và Lào, gây bao nhiêu lo ngại về an toàn thực phẩm, nước uống và thủy lộ giao thông. Đây cũng là thời kỳ con đập thứ tư Tiểu Loan/ Xiaowan 4</em><em>.</em><em>200 MW, sau con đập Cảnh Hồng / Jinghong, còn được gọi là “con đập mẹ” với dung lượng hồ chứa lên tới 15 tỉ mét khối – bằng tổng số dung lượng tất cả các hồ chứa khác của tỉnh Vân Nam, đang lấy nước vào hồ chứa và bắt đầu hoạt động phát điện.</em> </p>
<p>Nhưng cũng vẫn theo ông Hun Sen, thì đơn giản đó chỉ là do “<em>biến đổi khí hậu và khí thải carbon; chính khí thải carbon đã làm những cơn mưa thay đổi bất thường</em>”. <strong>Rồi ông mạnh miệng khuyên nhủ: “</strong><em>Vậy các nhà hoạt động môi sinh đừng có quá đáng / don’t be too extreme, và cũng đừng nói rằng vì các đập thủy điện mà thiếu nước ở hạ nguồn. Đó là một sai lầm</em><em>.</em><strong>”</strong> <strong>[6]</strong> </p>
<p>Phải nhìn bức tranh toàn cảnh phức tạp, với những tác hại tích lũy và dây chuyền của các con đập thủy điện trên nguồn nước, nguồn cá, nguồn phù sa, lúa gạo, và cả gây ô nhiễm nơi hạ nguồn, chứ không thể như ông Hun Sen giản lược một cách thô thiển bằng “<em>vài con số</em>” và một cụm từ “<em>thay đổi khí hậu</em>” rất thời thượng.</p>
<p><strong>Trong khi chính Bắc Kinh đang phải vất vả chống đỡ với sức ép của dư luận và cả cố gắng xoa dịu sự chống đối của các nhóm cư dân vùng Bắc Thái và Lào đang là nạn nhân trực tiếp của các con đập Vân Nam, thì ông Hun Sen lại tự nguyện biến mình thành “</strong><em>một luật sư hùng biện cho Trung Quốc / nhưng bất cần lý lẽ.</em><strong>”</strong></p>
<p>Ông Hun Sen lãnh đạo quốc gia Cam Bốt, khi đứng trước nguy cơ cả một hệ sinh thái của con sông Mekong và Biển Hồ đang bị suy thoái “một cách hiển nhiên và nhãn tiền” thì chính ông đã lại cố ý phủ nhận bao nhiêu mối quan tâm chính đáng và đầy trí tuệ trong suốt mấy thập niên qua của rất nhiều chuyên gia bảo vệ môi trường và của các tổ chức môi sinh phi chính phủ như TERRA/ Towards Ecological Recovery and Regional Alliance, IRN / International River Network, Viet Ecology Foundation…</p>
<p><strong>Thái độ của ông Hun Sen rõ ràng là “phủi tay rũ bỏ trách nhiệm” bằng cách đổ lỗi “cho thiên nhiên, cho thay đổi khí hậu” thay vì do sự bất lực của chính quyền do ông lãnh đạo từ bấy lâu nay</strong>. Trước hết ông đã không màng gì tới bao nhiêu nỗ lực để bảo vệ Biển Hồ – là trái tim của Cam Bốt, cũng là nguồn cá nguồn lúa gạo của ngót 17 triệu người dân Cam Bốt, rộng hơn là bảo vệ nguồn tài nguyên mong manh của con sông Mekong, đang đe dọa trên đời sống của ngót 70 triệu cư dân của 7 quốc gia ven sông.</p>
<p><strong>Cứu Trái Tim Biển Hồ – là cứu được cả hai vùng châu thổ Tonle Sap và ĐBSCL của Việt Nam; phục hồi hệ sinh thái: đất, nước và rừng của Cam Bốt là một thách đố và là nhiệm vụ vô cùng khăn của Hun Manet, của thế hệ lãnh đạo mới có trí tuệ và có tầm nhìn xa cho những bước phát triển bền vững <em>(sustainable development) </em>và tương lai thịnh vượng của xứ Chùa Tháp. </strong></p>
<p><strong>MEKONG SỢI DÂY XÍCH ĐỊNH MỆNH </strong></p>
<p>Trong một bài viết nhan đề <strong>“Ngoại giao Láng giềng Cam Bốt, hướng đi trên Con Nước Cuộn Sóng”</strong> / <a href="https://www.khmertimeskh.com/501381319/cambodias-neighbourhood-diplomacy-navigating-turbulent-waters/">Cambodia’s Neighbourhood Diplomacy</a>, Navigating Turbulent Waters. (Khmer Times 25/10/2023), khi đề cập tới thời kỳ lãnh đạo của Thủ tướng mới Hun Manet, học giả <strong>Chheang Vannarith, Chủ tịch của một think tank có tên là Học viện Viễn kiến Á châu</strong> (<a href="https://asianvision.org/what-we-do">Asian Vision Institute</a>) đã viết: </p>
<p><strong><em>“Cam Bốt đang tiến sâu hơn nữa trong kết hợp vùng / regional integration – với tin tưởng rằng tương lai hay định mệnh của Cam Bốt không thể tách rời ra khỏi vùng. Chuyển đổi Cam Bốt thành một cửa ngõ / gateway, một trục / hub, hay là một quốc gia cầu nối / bridging state trong lưu vực sông Mekong là một nỗ lực lâu dài / long-term endeavor.”</em></strong></p>
<p>Chheang Vannarith viết tiếp: <strong><em>“Chính sách ngoại giao láng giềng của Cam Bốt / Cambodia’s Neighbourhood Diplomacy, phải bắt rễ từ những nguyên tắc cơ bản / fundamental principles mà ông viết tắt bằng 4 chữ M và 2 chữ P theo tiếng Anh [M4P2]:</em></strong><em> <strong>Mutual respect / kính trọng nhau, Mutual understanding / hiểu biết nhau, Mutual trust / tin cậy nhau, và Mutual interest of Peace and Prosperity / cùng quan tâm tới Hòa Bình và Thịnh Vượng.”</strong></em><strong> [3] </strong></p>
<p><strong><em>Nhận định của người viết:</em></strong><em> Vận mệnh hai dân tộc Khmer và Việt Nam, giống như bối cảnh thu hẹp của một tác phẩm điện ảnh lừng danh của đạo diễn Stanley Kramer, </em><em>phim Xiềng xích /</em><a href="https://en.wikipedia.org/wiki/The_Defiant_Ones"><em>La C</em><em>haîne </em></a><em>(1958)</em><em>: câu chuyện của hai tù nhân khác chủng tộc một trắng, một đen vừa vượt thoát ra khỏi tù, cả hai vốn không ưa nhau nhưng lại bị trói buộc chung vào một sợi xích không sao tách ra được, cứ thế mà họ tìm cách hành hạ nhau để rồi</em><em>cuối cùng cả hai hiểu được rằng họ phải sống hòa hợp để thoát cảnh trở lại với cuộc sống ngục tù.</em></p>
<p><em>Sau bao nhiêu đau thương và thăng trầm lịch sử, cuối cùng, đã đến một lúc cả hai dân tộc Khmer và Việt Nam sớm nhận thức ra rằng, <strong>Sông Mekong là sợi xích ràng buộc định mệnh của cả hai dân tộc, và Biển Hồ là trái tim chung, sớm muộn họ phải tìm cho ra một giải pháp lâu dài, làm sao giải được lời nguyền để hai dân tộc cùng tồn tại, cùng phát triển thịnh vượng và chung sống trong hòa bình.</strong></em></p>
<p><br />
<strong>NGÔ THẾ VINH </strong><br />
California, 01/11/2023</p>
<p><strong><em>Tham Khảo: </em></strong></p>
<ol>
<li><em>Progress of the Funan Techo Canal Project</em><em>. Harbor Property. Latest news 12/10/2023 </em><a href="https://www.harbor-property.com/news/detail/1801/progress-of-the-funan-techo-canal-project"><em>https://www.harbor-property.com/news/detail/1801/progress-of-the-funan-techo-canal-project</em></a></li><br />
<li><em>China to Conduct Feasibility Study on “Funan Techo Canal” Project</em><em>, </em><em>Beijing (FN), October</em><em> 18, 2023 </em><a href="http://m.en.freshnewsasia.com/index.php/en/localnews/41715-2023-10-18-02-08-54.html"><em>http://m.en.freshnewsasia.com/index.php/en/localnews/41715-2023-10-18-02-08-54.html</em></a></li><br />
<li><em>Cambodia’s Neighbourhood Diplomacy, Navigating Turbulent Waters</em><em>. </em><em>Chheang Vannarith</em><em>. Khmer Times Oct 25, 2023 </em><a href="https://www.khmertimeskh.com/501381319/cambodias-neighbourhood-diplomacy-navigating-turbulent-waters/"><em>https://www.khmertimeskh.com/501381319/cambodias-neighbourhood-diplomacy-navigating-turbulent-waters/</em></a></li><br />
<li><em>Từ Đế chế Phù Nam Khmer tới con Kênh Lịch sử Funan Techo của Vương quốc Cam Bốt. Ngô Thế Vinh, </em><em>Việt Ecology Press</em><em> 10/10/2023</em><em>:</em><br />
<a href="https://vietecologypress.blogspot.com/2023/10/tu-e-che-phu-nam-khmer-toi-con-kenh.html" target="_blank"><em>https://vietecologypress.blogspot.com/2023/10/tu-e-che-phu-nam-khmer-toi-con-kenh.html</em></a></li><br />
<li><em>Đại Vận Hà Phù Nam của Vương Quốc Cam Bốt - Âm mưu thâm độc của Bắc Kinh</em><em>. Phạm Phan Long, VEF</em><em> 10/10/2023 </em><a href="http://vietecology.org/article/article/6445"><em>http://vietecology.org/article/article/6445</em></a></li><br />
<li><em>Thủ tướng Hun Sen với Thảm họa Môi sinh lớn nhất khi “Trái tim Biển Hồ” ngưng đập. Ngô Thế Vinh, Việt Ecology Foundation </em><br />
<a href="http://vietecology.org/article/article/57"><em>http://vietecology.org/article/article/57</em></a></li><br />
</ol>
<em><strong><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEijAR44faw3EPpOgidcuVNMTbJrRUpX-rdRdGECAkD3n1VKex4TbMSrSSNXx42lyFNHFVkYHTtH5uEkW4tzItrz9oooo3y4IUGSSifx0jzKoLpJTNfeMbfkQJypAUtLZBPKM6hQgRMG9zSEMnNvgWsGvBFWFxFzLpTOShMSrfXpfiIQ4cnTPhz2FzDryQc/s416/6447-9.jpg" imageanchor="1" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="332" data-original-width="416" height="159" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEijAR44faw3EPpOgidcuVNMTbJrRUpX-rdRdGECAkD3n1VKex4TbMSrSSNXx42lyFNHFVkYHTtH5uEkW4tzItrz9oooo3y4IUGSSifx0jzKoLpJTNfeMbfkQJypAUtLZBPKM6hQgRMG9zSEMnNvgWsGvBFWFxFzLpTOShMSrfXpfiIQ4cnTPhz2FzDryQc/w200-h159/6447-9.jpg" width="200" /></a></div>BS Ngô Thế Vinh, tác</strong><strong> giả 2 cuốn sách: </strong><strong>Cửu Long </strong><strong>C</strong><strong>ạn </strong><strong>D</strong><strong>òng, Biển Đông </strong><strong>D</strong><strong>ậy </strong><strong>S</strong><strong>óng </strong><strong>[2000],</strong><strong> và ký sự Mekong </strong><strong>D</strong><strong>òng </strong><strong>S</strong><strong>ông </strong><strong>N</strong><strong>ghẽn </strong><strong>M</strong><strong>ạch </strong><strong>[2007]</strong><strong>; liên</strong><strong> quan tới</strong><strong> các</strong><strong> vấn đề </strong><strong>môi sinh và phát triển </strong><strong>L</strong><strong>ưu vực sông Mekong và ĐBSCL</strong><strong>. Hình: tác giả đang băng qua Biển Hồ, tới khu Bảo Tồn Sinh Thái Tonle Sap. [12/2001]</strong></em>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-18553110169337770022023-10-16T18:51:00.002-07:002023-10-16T18:51:18.192-07:00TỪ ĐẾ CHẾ PHÙ NAM – KHMER TỚI CON KÊNH LỊCH SỬ FUNAN TECHO CỦA VƯƠNG QUỐC CAM BỐT<p style="text-align: center;"><b><span lang="VI" style="color: #833c0b; font-family: "Arial","sans-serif"; font-size: 14.0pt; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-language: AR-SA; mso-fareast-font-family: Calibri; mso-fareast-language: EN-US; mso-fareast-theme-font: minor-latin; mso-themecolor: accent2; mso-themeshade: 128;">NGÔ THẾ VINH</span></b></p><p></p><div style="text-align: center;">Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL</div><div style="text-align: center;">Gửi Nhóm Bạn Cửu Long</div><p></p>
<p><strong></strong></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjpKokwAHWjIW3PnpkQIZ2KI2g4B-TUiSjoB6-dhXApr1qOyKURhv66cDZv5jDBmkS1SS7MEO2AWjn48hvUgxb-JjQOrxOa25PCB8L_I1U-ihMfDyf3ovD64iFr3HngTBwhrr88zeiYLu67dCAqOio9qOUgRbtkQaNhzqiQwU5TDCCzle5MuSXPbvwlKuM/s600/6446-1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="330" data-original-width="600" height="220" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjpKokwAHWjIW3PnpkQIZ2KI2g4B-TUiSjoB6-dhXApr1qOyKURhv66cDZv5jDBmkS1SS7MEO2AWjn48hvUgxb-JjQOrxOa25PCB8L_I1U-ihMfDyf3ovD64iFr3HngTBwhrr88zeiYLu67dCAqOio9qOUgRbtkQaNhzqiQwU5TDCCzle5MuSXPbvwlKuM/w400-h220/6446-1.jpg" width="400" /></a></strong></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><br /></strong></div><div style="text-align: center;"><em><b>Hình 1:</b> </em><a href="https://www.youtube.com/watch?v=QOuB8EJM_ro"><em>Dự án Funan Techo Canal</em></a><em>, sẽ là Con Kênh Lịch sử của Vương quốc Cam Bốt 2024-2028 kết nối Cảng Phnom Penh ra tới Vịnh Thái Lan.</em></div><p></p>
<p><strong><em>LỜI GIỚI THIỆU: </em></strong><em>Ngày 8/8/2023 chính phủ Cam Bốt đã gửi tới Ban Thư ký Uỷ hội Sông Mekong MRC một Thông Báo về “Dự án <strong>Funan Techo Canal</strong> nhằm phục hồi một hệ thống đường thủy đã được xây dựng và vận hành từ triều đại Đế chế Funan-Khmer [sic] có từ khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Công trình này nhằm cải thiện giao thông đường thủy trong lãnh thổ Cam Bốt. Con kênh này có chiều dài 180 km, kết nối 4 tỉnh: Kandal, Takeo, Kampot, và Kep. Mục đích chính của dự án này như một kết nối lại với lịch sử và nhằm cải thiện giao thông đường thủy cho các cộng đồng cư dân địa phương. Triển khai dự án này phù hợp với cam kết của Cam Bốt theo điều khoản 1 và 2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, với sự bình đẳng về chủ quyền, tôn trọng những quyền hạn và các lợi ích chính đáng.</em><strong>(1)</strong><em> Dự án kênh Phù Nam Techo đã gây mối quan ngại cho Việt Nam khi mà ĐBSCL đang thiếu nước.Trước tình cảnh căng thẳng này, từ bên ngoài không ai có thể quan tâm hơn nhà văn Ngô Thế Vinh, tác giả của Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch đã viết bài tham luận này, giúp chúng ta bình tĩnh duyệt lại bối cảnh lịch sử hai dân tộc; kiểm điểm các thông số thiết kế vận hành con kênh, tìm hiểu những lợi hại trước mắt và tiềm ẩn của dự án, vai trò Trung Quốc, đối sách thiết thực nhất cho Việt Nam đàm phán với Cam Bốt và giữ hòa khí cho hai dân tộc. Viet Ecology Foundation<span></span></em></p><a name='more'></a><p></p>
<p><strong>ĐẾ CHẾ PHÙ NAM-KHMER </strong></p>
<p> Phù Nam là tên gọi một quốc gia cổ đại đã tồn tại trong vùng Đông Nam Á, từ trước Công nguyên, với di tích cảng Óc Eo nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long [ĐBSCL], nơi trao đổi buôn bán từ Trung Hoa xuống và từ Địa Trung Hải qua. Nguyên là một vương quốc hùng mạnh bao gồm cả vùng đất phía nam Việt Nam sang tới Thái Lan và bán đảo Mã Lai. Vương Quốc này chỉ tồn tại tới thế kỷ thứ VII, sau đó bị Chân Lạp thôn tính. </p>
<p> Nhưng rồi Chân Lạp bị phân hóa thành Thủy Chân Lạp phía nam và Lục Chân Lạp phía bắc luôn luôn bị đội quân hải đảo Java xâm lăng. Tới thế kỷ thứ IX, vua Jayavarman II kết hợp được dân chúng nổi dậy giành lại được độc lập từ Java, và Chân Lạp trở thành Đế quốc Khmer hùng cường. Tới thế kỷ XII, vua Jayavarma VII, sau khi đánh thắng quân Champa đã khai sinh ra một triều đại huy hoàng nhất của Đế quốc Khmer với Angkor Wat là một kỳ quan kiến trúc của thế giới. Khi Jayavarman chết, cũng là ngày suy tàn của Đế quốc Angkor Khmer, và sau đó chỉ còn một đất nước Cam Bốt thăng trầm cho tới ngày nay. </p>
<p><strong></strong></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhYB6L4znzMRau3GuKmRewITWog2oM0fDyMW09ti_QitDrFZ9zVDIX1lm_Phi_-O8kRvU2idpQVFYG6-AfqWvQ0AQBOS_E_h4jptlqdCjZFJbo7Yu0CKeSCUsvBEovJcbVjp3-3PSYIcWMMHkGyELhw7fYDXh2jGwMFaBd5wws2C-hQa9cMUZSObwibARM/s680/6446-2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="310" data-original-width="680" height="292" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhYB6L4znzMRau3GuKmRewITWog2oM0fDyMW09ti_QitDrFZ9zVDIX1lm_Phi_-O8kRvU2idpQVFYG6-AfqWvQ0AQBOS_E_h4jptlqdCjZFJbo7Yu0CKeSCUsvBEovJcbVjp3-3PSYIcWMMHkGyELhw7fYDXh2jGwMFaBd5wws2C-hQa9cMUZSObwibARM/w640-h292/6446-2.jpg" width="640" /></a></strong></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><br /></strong></div><div style="text-align: center;"><em><b>Hình 2</b>: </em><em>trái, sơ đồ Vương quốc Phù Nam vào khoảng thế kỷ thứ III bao gồm các vùng đất phía nam Việt Nam, Cam Bốt sang tới Thái Lan và bán đảo Mã Lai. Phù Nam chỉ tồn tại tới thế kỷ thứ VII sau đó bị Chân Lạp / Chenla thôn tính; kế tục Chân Lạp là một Đế Quốc Khmer hùng mạnh ra đời từ thế kỷ thứ IX; phải, sơ đồ Vương quốc Khmer với diện tích bao trùm nam Việt Nam, Cam Bốt, Lào, Thái Lan và bán đảo Mã Lai, và rồi tiêu vong vào thế kỷ thứ XV. Kế tiếp chỉ còn lịch sử một Vương quốc Cam Bốt thăng trầm cho tới ngày nay. </em>(nguồn: Wikipedia)</div><p></p>
<p style="text-align: left;"><strong>Ý NGHĨA DANH XƯNG “PHÙ NAM-KHMER”</strong></p>
<p> Đế quốc Phù Nam và đế quốc Khmer là hai thời kỳ lịch sử riêng biệt, nhưng có mẫu số chung là hai nền văn minh cổ xưa ấy đã để lại trên cùng dải đất những di tích về các công trình thủy lợi. Người Phù Nam, từ thế kỷ thứ V họ đã biết đào kênh, tạo nên mạng lưới giao thông kết nối các thị trấn Angkor Borei (Nam Phnom Penh), Óc Eo (núi Sập, núi Ba Thê - Long Xuyên), và Thị Trấn Trăm Đường (Đông Nam Kiên Giang) <strong>(6)</strong></p>
<p>Tới cuối thế kỷ 20, sau thời kỳ Khmer Đỏ đầy tang tóc, đất nước Cam Bốt đã xuất hiện một <strong>“con người của thời cuộc”</strong>: đó là Hun Sen, có gốc là Khmer Đỏ ly khai, theo Việt Nam và có một giai đoạn bị đánh giá rất sai lầm là <em>“bù nhìn của Hà Nội”</em>. Nhưng không, với thời gian Hun Sen đã chứng tỏ là một chính khách bản lãnh và đầy tham vọng, đã đưa đất nước Cam Bốt ra khỏi quỹ đạo Việt Nam. Hun Sen được kể là vị Thủ Tướng trị vì đất nước Cam Bốt với bàn tay sắt, và đã tại vị lâu năm nhất trong lịch sử Cam Bốt và của cả thế giới hiện tại [gần 4 thập niên từ 1985 tới 2013]. Và nay thì con trai ông là Tướng Hun Manet tiếp nối cha đảm nhận chức Thủ Tướng Cam Bốt từ tháng 7/2023. Nhưng trên thực tế, Hun Sen vẫn có quyền lực bao trùm của một Thái Thượng Hoàng.</p>
<p> Và không phải là tình cờ khi ông Hun Sen đã chọn tên <strong>Phù Nam</strong>, gắn liền với <strong>Techo</strong> là một phần danh hiệu rất dài của ông: Samdech Akka Moha Sena Padei Techo Hun Sen / có nghĩa tổng quát là Ngài Thủ Tướng Samdech Hun Sen kiêm Tư lệnh Quân đội Tối cao (Wikipedia). </p>
<p><strong>Chỉ riêng chữ Techo được chính ông Hun Sen giải nghĩa: “Ai vinh dự mang tên ấy có sứ mệnh đánh đuổi quân xâm lăng đất nước Cam Bốt” </strong>[Who carry the honorific Techo are destined to fight off the invaders of Cambodia. _The Cambodia Daily 4/2/2010].<strong> </strong>Với người dân Cam Bốt thì họ hiểu rằng, quân xâm lăng ấy không ai khác hơn là từ hai nước láng giềng Việt Nam/ Youn và Thái Lan/ Siam.<strong> </strong></p>
<p>Funan Techo Canal sẽ như một di sản mà Samdech Techo Hun Sen muốn để lại cho đất nước Cam Bốt</p>, nó sẽ có ý nghĩa hơn một tượng đài, luôn luôn gợi nhớ về một quá khứ hào hùng của dân tộc Khmer và cũng gián tiếp gửi một thông điệp cho Việt Nam rằng có một thời kỳ vùng châu thổ ĐBSCL trong lịch sử đã là phần lãnh thổ của Đế Chế Angkor Khmer.
<p></p><div class="separator" style="clear: both; font-style: italic; font-weight: bold; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjimfKT3pTjicSCVFeqrE_gPWeZm5AkFvObYQjNoMUkxKDWUazoApK0yKTeVBTORQEpxX7rmWK_DwZM3jyWBF1Onqc4is-XqukEXbEBoUmD_UgnTVBO-dmuOscAa0fWbHpVGqROucqB4BTM-DrPw-qHurIr-hFqZlmeCvOSW2AvwokPOezNkWsmWAZ-kKo/s990/6446-3.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="728" data-original-width="990" height="470" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjimfKT3pTjicSCVFeqrE_gPWeZm5AkFvObYQjNoMUkxKDWUazoApK0yKTeVBTORQEpxX7rmWK_DwZM3jyWBF1Onqc4is-XqukEXbEBoUmD_UgnTVBO-dmuOscAa0fWbHpVGqROucqB4BTM-DrPw-qHurIr-hFqZlmeCvOSW2AvwokPOezNkWsmWAZ-kKo/w640-h470/6446-3.jpg" width="640" /></a></div><br /><div style="text-align: center;"><i><b>Hình 3</b>: Sơ đồ Dự án kênh Funan Techo Canal dài 180 km của Vương Quốc Cam Bốt, tổn phí lên tới 1.7 tỷ USD được tài trợ bởi Trung Quốc qua quỹ Sáng kiến Một Vành Đai Một Con Đường (Belt and Road Initiative / BRI), dự trù khởi công năm 2024, sẽ hoàn tất và vận hành 4 năm sau (2028). [Nguồn: Mekong River Commission / MRC]</i></div><p></p>
<p><strong>THÔNG SỐ KỸ THUẬT KÊNH ĐÀO FUNAN TECHO</strong></p>
<p> Chính phủ Hoàng Gia Cambodia, thông qua Bộ Công chánh và Vận tải [Public Work and Transport / MPWT] đã gửi một Thông Báo ký ngày 8 tháng 8 năm 2023 tới Tiến sĩ Anoulak CEO Ban Thư Ký Ủy Hội Sông Mekong về một <strong>Dự án Kênh đào nội địa “Funan Techo Canal” </strong>(1)<strong> </strong>với các chi tiết kỹ thuật như sau:</p>
<p>_ Tên Dự án: <strong>Kênh Đào Nội địa “Funan Techo Canal”</strong></p>
<p>_ Vị Trí của Dự án, gồm hai phần:</p>
<ul>
<li>Phần I: khởi điểm từ dòng chảy thiên nhiên Prek Takeo thuộc huyện Kien Svay và được nối với dòng chảy thiên nhiên Prek Ta Ek thuộc huyện Saang, tỉnh Kandal.</li><br />
<li>Phần II: khởi điểm từ dòng chảy thiên nhiên Prek Ta Hing, huyện Kothom, tỉnh Kandal và nối dòng chảy thiên nhiên Prek Takeo thuộc hai tỉnh Kapot và Kep. </li>
</ul>
<p>_ Đề xuất Sử dụng: Trên phụ lưu của con sông Mekong trong phần I. Trên phụ lưu của con sông Bassac trong phần II. </p>
<p>_ Mục đích của Dự án: Kênh Nội địa cho mục đích vận tải và giao thông đường thủy. </p>
<p>_ Dự trù triển khai: </p>
<ul>
<li>Khởi công 2024</li><br />
<li>Hoàn tất xây dựng 2027</li><br />
<li>Bắt đầu vận hành 2028</li>
</ul>
<p>_ Mô tả Dự án</p>
<ul>
<li>Dẫn nhập: nhằm phục hồi dự án đường thủy “<a id="_Hlk147867049" name="_Hlk147867049">Funan Techo </a>Canal” đã được xây dựng và vận hành từ Triều đại Đế chế Funan-Khmer [sic] có từ khoảng 500 năm trước Công Nguyên (BCE). Công trình này nhằm phục hồi và cải thiện giao thông đường thủy trong nội địa. Con kênh này có chiều dài khoảng 180 km, kết nối 4 tỉnh: Kandal, Takeo, Kampot, và Kep. Mục đích chính của dự án phục hồi thủy vận là kết nối lại với lịch sử và cải thiện giao thông đường thủy cho các cộng đồng cư dân địa phương. Triển khai dự án này phù hợp với cam kết của Cam Bốt theo điều khoản 1 và 2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, với sự bình đẳng về chủ quyền và tôn trọng những quyền hạn và lợi ích chính đáng. <em>[… in line of principles of the foreign equality and respect for rights and legitimate interests.]</em> </li><br />
<li>Những Yếu Tố Kỹ Thuật chính:<br />
Trọng tải: 1.000 tấn (DWT / tons deadweight)<br />
Chiều dài: 180 km<br />
Độ sâu và độ rộng: 4,7m x 50m<br />
Độ thông cầu: 16m x 53m (Bridge Navigation Clearance)<br />
Mẫu tàu: 60m x 12m x 3,6m (Length x Width x Full Draft)
</li><br />
<li>Công trình âu tàu (Lock Works): <br />
Kích thước âu tàu: 135m x 18m x 5,8m (Dài x Rộng x Sâu)<br />
Công suất: 7,04 triệu tấn / năm (mỗi âu tàu)<br />
Số âu tàu: 3<br />
Lượng nước xả tối đa: 3,6m3/ giây<br />
Đào đất và lấp<br />
Xây dựng các âu tàu<br />
Xây cửa âu tàu<br />
Xây các cơ sở hỗ trợ công trình<br />
Mạng lưới điện cho âu tàu<br />
Hệ thống liên lạc cho âu tàu<br />
Hệ thống điều khiển tự động cho các âu tàu<br />
Hệ thống phòng hỏa cho các âu tàu
</li><br />
<li>Công trình Kênh thủy vận<br />
Đáy rộng 2 chiều 50m<br />
Độ sâu 4,7m <br />
Bán kính cong tối thiểu 300m (Minimum Radius of the Canal)<br />
Bờ nghiêng con kênh: 1:3 ~ 1:5
</li><br />
<li>Số cầu: 11<br />
Chiều dài cầu chính 161m<br />
Cầu vượt 520m (Length for Approach)
</li><br />
</ul>
<p>_ <strong>Lượng Giá Ảnh hưởng Môi trường/ EIA:</strong></p>
<ul>
<li>Ảnh hưởng về lượng nước trên hệ thống sông:<br />
Do có 3 âu tàu trên kênh, nên lượng nước được kiểm soát hiệu quả. <strong>Lượng nước xả tối đa cho một âu tàu là 3,6 m3/ giây (trung bình mỗi ngày), con số đó không đáng kể so với dòng chảy của hệ thống sông Mekong. Và như vậy sẽ không có ảnh hưởng đáng kể nào trên lượng nước sông Mekong. [sic]</strong>
</li><br />
<li>Ảnh hưởng tích cực của dự án:<br />
Cải thiện giao thông và vận tải bằng đường thủy cho các cộng đồng cư dân phía nam Cam Bốt.<br />
Giảm thiểu lũ lụt ở một số vùng như các tỉnh Kandal và Takeo.<br />
Tạo thêm môi trường sống bền vững cho cá, các loài động vật dưới nước, các loại chim muông và rong tảo.<br />
Bảo đảm an toàn lương thực cho cư dân địa phương bằng phát triển ngư nghiệp.<br />
Gia tăng tiềm năng du lịch do cải thiện hệ thống giao thông.
</li><br />
<li>Ảnh hưởng tiêu cực của dự án:<br />
Ô nhiễm bụi và tiếng ồn trong giai đoạn xây cất.<br />
Vấn đề nước, đường sá và bảo vệ đất đai trong giai đoạn xây cất với rác thải.
</li><br />
<li>Giảm thiểu tác động tiêu cực của dự án:<br />
Xây dựng 3 âu tàu nhằm kiểm soát được lưu lượng dòng chảy của con kênh, kiểm soát được dòng chảy tràn / outflow của con sông Bassac qua con kênh đổ ra biển và chống lại nạn nhiễm mặn xâm nhập từ biển.<br />
Bảo vệ môi trường với các biện pháp kiểm soát theo tiêu chuẩn quốc tế, bảo tồn cây xanh, giảm thiểu xói mòn và giảm thiểu ô nhiễm trong giai đoạn xây dựng và cả thời gian vận hành.
</li>
</ul>
<p><strong>_ Những Kết Luận</strong></p>
<p> Dự án Kênh Nội địa “Funan Techo Canal” sẽ giúp các cộng đồng cư dân địa phương Cam Bốt cải thiện mạng lưới thủy vận, kích thích phát triển về kinh tế và xã hội trong vùng. <strong>Sẽ không có ảnh hưởng đáng kể hay tiêu cực trên lưu lượng dòng chảy của hệ thống sông Mekong.</strong> Ba âu tàu, có khả năng điều hợp hữu hiệu dòng chảy của con kênh; cũng như ảnh hưởng trên môi trường và xã hội tối thiểu trong thời gian xây dựng và vận hành con kênh về sau này.<strong>(1)</strong> [Hết trích dẫn]<strong> </strong></p>
<p><strong>Trong bức thư của Chính Phủ Hoàng Gia Cam Bốt gửi MRC có nhắc tới Điều Khoản 1 & 2 và Điều khoản 4.3.2 của Quy trình PNPCA của Hiệp Định Sông Mekong 1995, vậy các điều khoản đó là gì? </strong></p>
<p><strong>ĐIỀU KHOẢN 1 & 2 CỦA HIỆP ĐỊNH SÔNG MEKONG 1995</strong></p>
<p>Về Mục tiêu và Nguyên tắc Hợp tác </p>
<p>_ Điều 1. Các lãnh vực hợp tác: Hợp tác trong tất cả các lãnh vực phát triển bền vững, sử dụng, quản lý và bảo vệ tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan của lưu vực Mekong, bao gồm các lãnh vực chính sau: tưới, thủy điện, giao thông đường thủy, kiểm soát lũ, thủy sản, thả bè, giải trí và du lịch <strong>để đạt được mức tối ưu trong sử dụng đa mục tiêu và cùng có lợi cho tất cả các quốc gia ven sông</strong> và giảm tới mức thấp nhất các ảnh hưởng có hại gây ra bởi các hiện tượng tự nhiên và các hoạt động của con người.</p>
<p>_ Điều 2. Các dự án, các chương trình và lập quy hoạch</p> . Thúc đẩy, hỗ trợ, hợp tác và điều hợp trong việc <strong>phát triển mọi tiềm năng vì lợi ích bền vững của tất cả các </strong><strong>q</strong><strong>uốc gia ven sông và ngăn ngừa sử dụng lãng phí nước trong Lưu vực sông Mekong</strong>, chú trọng và ưu tiên các dự án phát triển chung có quy mô lưu vực và các chương trình lưu vực thông qua lập quy hoạch phát triển lưu vực nhằm xác định, phân loại và lập hạng ưu tiên cho các dự án, và các chương trình hỗ trợ và thực hiện ở cấp lưu vực.
<p><strong>ĐIỀU KHOẢN 4.3.2 CỦA QUY TRÌNH PNPCA</strong></p>
<p> Cho dù theo Hiệp Định Sông Mekong 1995, không một quốc gia nào có quyền phủ quyết / veto power nhưng các dự án sông Mekong vẫn phải trải qua 3 giai đoạn tham vấn viết tắt là PNPCA bao gồm:</p>
<p><strong>_ </strong><strong>Giai đoạn I Thủ Tục Thông Báo</strong> <em>[PN / Procedures for Notification]</em>: Ủy Hội Sông Mekong sẽ được chính phủ liên hệ thông báo chính thức về dự án. </p>
<p><strong>_ </strong><strong>Giai đoạn II Tham Vấn Trước</strong> <em>[PC / Prior Consultation]</em>: với khoảng thời gian 6 tháng, nhưng nếu các nước thành viên chưa đạt được sự đồng thuận thì khung thời gian này có thể được gia hạn.</p>
<p><strong>_ </strong><strong>Giai đoạn III Chuẩn Thuận</strong> <em>[A / Agreement]</em><em>,</em> dự án sẽ khởi công khi đạt được sự chuẩn thuận của các nước thành viên. </p>
<p><strong>PHÂN TÍCH VỀ BẢN THÔNG BÁO THIẾU SÓT VỚI NHIỀU ẨN SỐ</strong></p>
<p><strong>_ ĐIỀU ĐƯỢC NÓI RA </strong></p>
<p> Trong Thông Báo gửi MRC, khi nói về mục đích của Dự án chỉ vỏn vẹn có một câu: <strong>“Con kênh nội địa có mục đích vận tải và giao thông đường thủy”</strong>, với lợi ích rất rõ ràng: <br />
Chặng đường sông nếu phải qua ngả Việt Nam khoảng 433 km, nay với con kênh Phù Nam Techo khoảng cách chỉ còn 237 km, rút ngắn được 196 km, như vậy sẽ giảm thiểu thời gian di chuyển và bớt nhiên liệu tiêu thụ, – cũng có nghĩa là giảm đáng kể chi phí vận chuyển và quan trọng hơn nữa là <strong>tạo được một trục / hub giao thương mới mà không cần phải đi qua khúc sông Mekong của Việt Nam.</strong> Tất cả nhằm tăng tính cạnh tranh, thu hút thêm đầu tư, giảm thiểu chậm trễ và giảm chi phí về tiếp vận.</p>
<p>Dự án này đã được <strong>một đại Công ty Trung Quốc China Communications Construction Company / CCCC thực hiện cuộc nghiên cứu về tính khả thi và sẽ được Chương trình Belt and Road Initiative / BRI tài trợ 1,7 tỷ USD.</strong></p>
<p><em>[Tưởng cũng nên có thêm ít dòng về công ty CCCC đầy tai tiếng này, có liên hệ với <strong>Chiến lược “Một Vành Đai Một Con Đường”</strong> <strong>đã từng bị Mỹ đưa vào danh sách trừng phạt vì có tệ trạng tham nhũng, lũng đoạn tài chánh, tàn phá môi trường và những lạm dụng khác trên khắp thế giới.</strong> Và nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa không được phép sử dụng công ty này và các công ty quốc doanh khác như thứ vũ khí bành trướng. _ Silk Road Briefing, Aug 27, 2020] </em></p>
<p>Chúng ta hãy nghe John Yip Weiyan, Giám đốc Đầu tư Quỹ <strong>Một Vành Đai Một Con Đường [The Belt and Road Initiative] </strong>của Trung Quốc nhận định: “Dự án hạ tầng Funan Techo Canal sẽ là một game-changer/ một nhân tố thay đổi hệ thống hậu cần/ logistics và sẽ ảnh hưởng tới sự phân phối các thùng hàng/ containers của Cam Bốt từ cảng biển sâu Sihanoukville và cảng Phnom Penh. Sẽ có nhiều thùng hàng hóa được vận chuyển tới các cảng địa phương theo con kênh đào này sau khi hoàn tất. Sử dụng con kênh đào cũng có tác dụng kích thích phát triển thêm những cảng quốc tế khác như dự án cảng quốc tế đa năng Kampot / Multi-Purpose Logistics and Port Centre, tạo thêm một hành lang vận chuyển cho thủ đô Phnom Penh.” <strong>(2)</strong></p>
<p><strong>_ NHỮNG ĐIỀU KHÔNG ĐƯỢC NÓI RA </strong></p>
<p> Nhưng trong thực tế <strong>Funan Techo</strong> <strong>sẽ là một con Kênh Đào Đa Năng / Multipurpose,</strong> với rất nhiều mục đích khác mà chính phủ Hoàng gia Cam Bốt đã không nói ra, chúng ta có thể kể: </p>
<p>_ Con kênh nước ngọt ấy lấy nước từ con sông Mekong và con sông Bassac chảy qua 4 tỉnh, với 1,6 triệu dân sống hai bên kênh, khi có được nguồn nước vô giá, con kênh không những giúp cho việc tiêu tưới mở rộng diện tích canh tác / agriculture mà còn tạo những hồ nước nuôi trồng thủy sản / aquaculture, bảo đảm lương thực và cải thiện đời sống các cộng đồng cư dân trong vùng. </p>
<p>_ Trong các cuộc bàn thảo của <strong>Diễn đàn Vận Tải và Hậu Cần 2023</strong> (Transport and Logistics Forum 2023), người ta còn bàn tới sự gia tăng giá trị đất đai và bất động sản ven con kênh, khi có thêm được những cảng phụ / subordinate ports, tạo thêm công ăn việc làm, đồng thời với phát triển các khu gia cư cùng với nhu cầu nguồn nước cho sinh hoạt. </p>
<p><strong>Như vậy, với con kênh đào 180 km chiều dài ấy đâu có phải chỉ cần có 80 triệu m3 nước và một lượng nước xả từ mỗi âu tàu (ship-lock) là 3,6 m3 / giây (trung bình mỗi ngày) để mà kết luận rằng: con số đó là không đáng kể so với lưu lượng dòng chảy của hệ thống sông Mekong. (1)</strong></p>
<p></p><div class="separator" style="clear: both; font-style: italic; font-weight: bold; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjhj8Cr-0bfyZdR5iGPPnDckb_mMRKgbCej3cx_M4gu-A1BqekOzNJ8ddq4Y_VWq23IQHEFJNbiQ0tNaBWqEZFiBHjI-l3T1bc_xZn7o4lGo6w6KI9E0AEiKS2GybeDC_khnaEUhXb9Bcm4CHlwReQXG7CdjcnnnI4xkbZiVY94XIUZnRFG7za4RHMcYj0/s900/6446-4.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="509" data-original-width="900" height="362" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjhj8Cr-0bfyZdR5iGPPnDckb_mMRKgbCej3cx_M4gu-A1BqekOzNJ8ddq4Y_VWq23IQHEFJNbiQ0tNaBWqEZFiBHjI-l3T1bc_xZn7o4lGo6w6KI9E0AEiKS2GybeDC_khnaEUhXb9Bcm4CHlwReQXG7CdjcnnnI4xkbZiVY94XIUZnRFG7za4RHMcYj0/w640-h362/6446-4.jpg" width="640" /></a></div><br /><div style="text-align: center;"><i><b>Hình 4</b>: hình chụp cắt từ Google Maps, và chấm đỏ nơi tỉnh Prek Takeo trên bản đồ là khởi điểm của con kênh đào Funan Techo dài 180km.</i></div><p></p>
<p>Với tình huống bất định đó, <strong>Kỹ sư Thủy học Đỗ Văn Tùng, P.Eng. </strong>rất giàu kinh nghiệm và từng là kỹ sư tham vấn cho nhiều công ty Mỹ và Canada, cho rằng: <em>“Nếu c</em><em>on kênh này bắt đầu từ Prek Takeo (chấm đỏ ở bản đồ đính kèm) nối dòng chính sông Mekong và sẽ gặp sông Bassac ở hạ lưu.</em><em>Sau khi hoàn thành</em><em>,</em><em> con kênh dài 180 km này sẽ cần khoảng 80 triệu</em><em> mét</em><em> khối nước để thông thương. Sau đó lưu lượng dòng chảy trong kênh sẽ tùy thuộc vào chênh lệch cao độ giữa đầu và cuối con kênh</em><em>, cùng với </em><em>ảnh hưởng của thủy triều. Lưu lượng nước này sẽ lấy từ sông Mekong và Bassac. Ảnh hưởng như thế nào ở mỗi mùa đối với</em><em> Biển</em><em>H</em><em>ồ Tonle Sap và ĐBSCL vẫn chưa rõ. <strong>Cần phải có một mô hình điện toán về thủy lực</strong></em><strong><em> [Hydraulic modeling] </em></strong><strong><em>mới tính được chính xác.</em></strong><em> <strong>Nhưng</strong></em><strong><em> có m</em></strong><strong><em>ột điều chắc chắn là trong mùa khô nước ở ĐBSCL sẽ ít hơn làm vấn đề nhiễm mặn trầm trọng hơn</em></strong><strong><em>”</em></strong><strong><em>.</em></strong><strong></strong></p>
<p><strong>Kỹ sư Phạm Phan Long, P.E. Giám đốc điều hành Việt Ecology Foundation, </strong>nhận định rằng<strong>: </strong><em>“Báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM (TbEIA/ Transboundary Environmental Impact Assessment, Technical Review Report) của con kênh đào </em><em>Funan Techo</em> <em>vô cùng quan trọng và là trách nhiệm của Cam Bốt, Việt Nam không thể đánh giá dự án này dựa trên một bản Thông Báo / Prior Notification rất sơ lược </em><strong>(1)</strong><em> mà không có những chi tiết thiết kế và các thông số về quy trình vận hành.” </em>KS Phạm Phan Long cũng nói tới mối quan tâm xa hơn là khi đã có con kênh nước ngọt này rồi, Cam Bốt có thể đơn phương <strong>bơm</strong> <strong>nước từ 180km con kênh này để tưới cho khắp vùng châu thổ 4 tỉnh từ Takeo xuống tới Kep trước khi đổ ra Vịnh Thái Lan, và như vậy thì lưu lượng nước lấy từ con sông Mekong và con sông phụ lưu Bassac không phải chỉ 113 triệu mét khối mỗi năm mà sẽ nhiều lần lớn hơn và Việt Nam ở cuối nguồn không thể nào lường trước được. [hết trích dẫn]</strong><em> </em><strong>(5)</strong></p>
<p><strong>TỪ</strong><strong> KÊNH VĨNH TẾ TỚI KÊNH FUNAN TECHO </strong></p>
<p> Năm 1819, khi Thoại Ngọc Hầu được lệnh vua Gia Long đào một con kênh lớn chạy thẳng từ Châu Đốc xuống đến Kiên Giang, nhập vào sông Giang Thành ra tới Hà Tiên đổ vào Vịnh Thái Lan. Kênh Vĩnh Tế bắt đầu từ tả ngạn sông Hậu (tên Bassac bên phía Cam Bốt), dọc theo đường biên giới, dài 90 km, rộng 30 m, sâu 2,5 m; với nguồn nước từ sông Hậu đổ vào. Con kênh Vĩnh Tế ở giai đoạn thời kỳ Nam Tiến chủ yếu là một con hào chiến lược có giá trị quốc phòng hơn là giá trị kinh tế. Tuy lấy nước từ sông Hậu, nhưng theo TS Lê Anh Tuấn, nguyên Phó Giám Đốc Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí Hậu (DRAGON Institute], Phó Giáo sư Khoa Tài Nguyên và Môi Trường Đại Học Cần Thơ viết: <em>“</em><em>Kinh Vĩnh Tế nối từ sông Hậu ở Châu Ðốc đến sông Giang Thành thuộc Hà Tiên. Lưu lượng chảy ra Biển Đông gần như không đáng kể vì độ dốc ngược, biên độ thủy triều ở V</em><em>ị</em><em>nh Thái Lan rất thấp nên không tạo ra độ chênh mực nước lớn. Con kinh này ngày xưa vua nhà Nguyễn cho đào với mục tiêu chính là bảo vệ phần đất Việt Nam với Cam Bốt và một phần giao thông đường</em><em>thủy chứ không có mục tiêu thoát nước.</em><em>” </em></p>
<p>Đến với con Kênh Vĩnh Tế cũng là đến với một chặng đường lịch sử trải dài ngót 200 năm với nhiều máu, mồ hôi và nước mắt. Vĩnh Tế đã để lại một vết hằn thù hận trong tâm khảm người Cam Bốt. </p>
<p> Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu như hiện nay, với một ĐBSCL đang thiếu nước canh tác, tình trạng ngập mặn ngày thêm trầm trọng do ảnh hưởng chuỗi đập thủy điện dòng chính thượng nguồn từ Trung Quốc [11 đập] xuống tới Lào [9 đập] và cả vô số những con đập phụ lưu trong khắp lưu vực, chưa kể những bước phát triển sai lầm tự hủy của chính Việt Nam nơi ĐBSCL. Nay lại sắp có thêm con kênh Phù Nam Techo của Cam Bốt chắc chắn không thể không gây mối quan tâm cho nhiều người Việt Nam, mà nạn nhân trực tiếp không ai khác hơn là 20 triệu cư dân nghèo khổ nơi ĐBSCL bấy lâu không được quyền có tiếng nói. Nếu chỉ về kích thước với chiều dài, bề rộng và độ sâu thì con kênh Vĩnh Tế nhỏ hơn con Kênh Phù Nam Techo rất nhiều, còn về cấu trúc cho tới phương thức vận hành tự động hóa thì đây sẽ là một thủy lộ không những rất lớn mà còn rất hiện đại.</p>
<p><strong>TINH THẦN SÔNG MEKONG MỘT MẪU SỐ CHUNG</strong></p>
<p>Tiếp sau bản Thông Báo của Vương quốc Cam Bốt gửi Ủy Hội Sông Mekong ký ngày 8/8/2023, trong hơn hai tháng qua, là một cuộc tranh luận sôi nổi trên khắp các diễn đàn trong nước và hải ngoại, kể cả sự giận dữ trước tình cảnh rất bị động của Việt Nam như hiện nay. </p>
<p><strong>Nếu nói Sông Mekong là sợi chỉ đỏ nối kết các quốc gia trong lưu vực nhưng thực tế thì ngược lại</strong>. Mekong đang trở thành một con sông chia rẽ do những tranh chấp quyền lợi riêng tư của mỗi quốc gia trong vùng. Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, với một Ủy Ban Sông Mekong Việt Nam vô hiệu và bất lực, hơn bao giờ hết đây là lúc Việt Nam phải có ngay một <strong>Toán Đặc Nhiệm / Task Force Sông Mekong</strong> – điều lẽ ra phải làm từ lâu, nhằm đề ra được một chiến lược lâu dài có khả năng đối phó với mọi tình huống.</p>
<p> Điều trước tiên về phía người Việt, <strong>hãy quên đi thứ Văn hóa Chiến tranh [Culture of War], một cuộc “chiến tranh vì nước”, và ngay từ bây giờ, từ giới lãnh đạo cho tới người dân cần hành động bằng một đầu óc tỉnh táo, thay vì nhiều giận dữ như hiện nay.</strong> Vị thế Việt Nam và Cam Bốt năm 2023 đã khác xa với 40 năm trước. Việt Nam không thể hành xử như một “Tiểu Bá” – chữ của Bắc Kinh gán cho Việt Nam. </p>
<p>Với Dự án Kênh Funan Techo 2024-2028, hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Cam Bốt, cộng thêm với quyết tâm của vị vua thời hiện đại là<strong> Samdech Techo Hun Sen</strong>, với hậu thuẫn toàn diện của Bắc Kinh nằm trong <strong>Chiến lược Một Vành Đai Một Con Đường</strong>, Việt Nam đã không có một thế đối trọng để ngăn cản, hay cấm đoán Cam Bốt thực hiện dự án này. Nói vậy, không có nghĩa là Việt Nam hoàn toàn bó tay mà thực ra có rất nhiều việc phải làm để đối phó ngay với Dự Án Funan Techo và giới hạn mức độ tổn thất. </p>
<p>1_ Lập ngay một Toán Đặc Nhiệm “Funan Techo” có quyền hạn mà trụ sở đầu não là Khoa Tài Nguyên Môi Trường của Đại Học Cần Thơ, với Ủy Ban Sông Mekong phải là một thành viên trong đó. </p>
<p>2_ Tòa Đại Sứ và Lãnh Sự Việt Nam ở Nam Vang phải có ngay các “tùy viên môi sinh” – như một dạng tình báo môi sinh, trực tiếp theo dõi tại thực địa từng bước diễn tiến của dự án này.</p>
<p>3_ Một khoản đầu tư xứng đáng để thuê toán chuyên gia quốc tế thực hiện một cuộc khảo sát đánh giá một cách khoa học và khách quan với cả một mô hình thủy học / Hydraulic Modeling là không thể thiếu. </p>
<p>KS Thuỷ Học Đỗ Văn Tùng, Canada có 3 góp ý thêm về phần 3_</p>
<ul>
<li>Nếu chưa có một mô hình thuỷ học mới, Việt Nam - Cam Bốt có thể ứng dụng mô hình MIKE 11 để tính toán ảnh hưởng của dự án kênh đào Phù Nam Techo, với ưu điểm là nó đã có sẵn, tương đối phổ biến trong Uỷ Hội Sông Mekong MRC, nhiều người đã quen sử dụng nên dễ trao đổi thảo luận với nhau hơn.</li><br />
<li>Quan trọng hơn nữa là cần có một quy chế rõ ràng giữa Cam Bốt và Việt Nam về việc chia sẻ số liệu, nhất là về lưu lượng nước sông Mekong và Bassac chảy vào con kênh Phù Nam Techo. Những số liệu này sẽ được dùng thường xuyên trong mô hình MIKE 11 để (i) đánh giá độ tin cậy của số liệu, và (ii) tính toán ảnh hưởng và thiệt hại ở ĐBSCL.</li><br />
<li>Cam Bốt và Việt Nam nên có một tầm nhìn xa hơn, nhắm tới mục tiêu có một thoả ước về việc tính toán và đền bù ra sao nếu như phía Cam Bốt lấy qúa nhiều nước gây thiệt hại kinh tế và môi trường nơi ĐBSCL. Nếu thoả ước này thực hiện được thì nó sẽ là một hướng đi tốt có thể áp dụng cho toàn Lưu vực sông Lancang Mekong.</li>
</ul>
<p>4_ Ở một mức cao hơn nữa, giữa hai chính phủ, <strong>Việt Nam phải tận dụng “Quyền Lực Mềm / Soft Power”</strong> qua ngả chính trị ngoại giao bằng sự thuyết phục, và cả chứng tỏ sự thành tâm hợp tác nhắm tới những phúc lợi cho cả hai bên, cùng với một nỗ lực <em>“giải một lời nguyền”</em> xóa dần mối thù hận có tính cách lịch sử giữa hai dân Việt - Khmer trong quá khứ. </p>
<p>Và như vậy không phải chỉ có hô hoán những khẩu hiệu kích động thêm sự hận thù như <em>“Hun Sen kẻ phản bội” – </em>người đã từng tốt nghiệp trường Đảng Hồ Chí Minh, hay bi đát hơn là lời than vãn <em>“Kênh đào Phù Nam là chiếc đinh cuối cùng đóng vào quan tài ĐBSCL”.</em> </p>
<p> Thách thức của con kênh Phù Nam Techo là có thật cho Việt Nam, và mọi người dân Việt cần trầm tĩnh, tập trung năng lượng và chất xám để đối phó, nhằm giới hạn mức tác động thiệt hại của con kênh chiến lược này. Nếu vô tình gây thêm thù hận và chia rẽ giữa hai nước Cam Bốt và Việt Nam là trúng <strong>sách lược “chia để trị” của Trung Quốc</strong>.</p>
<p>Tương lai Việt Nam không cần thêm một cuộc chiến tranh vùng, mà đang cần tới một giới lãnh đạo có trí tuệ, có một tầm nhìn lịch sử để không đẩy cả dân tộc vào một chặng đường tứ diện thọ địch bi đát như hiện nay. </p>
<p><strong>NGÔ THẾ VINH </strong><br />
California, 10/10/2023</p>
<p> </p>
<p><strong>THAM KHẢO</strong></p>
<ol>
<li>Notification of The Inland Waterway Project “Funan Techo Canal”. Kingdom of Cambodia. Cambodia National Mekong Committee. Date of Submission 08 Aug 2023</li><br />
<li>Funan Techo Canal – Opening Cambodia to the World<br />
KhmerTimes, May 31, 2023 <a href="https://www.khmertimeskh.com/501298529/funan-techo-canal-opening-cambodia-up-to-the-world/">https://www.khmertimeskh.com/501298529/funan-techo-canal-opening-cambodia-up-to-the-world/</a></li><br />
<li>Funan Techo Canal Approved to Link Bassac and Kep. B2B Cambodia 23/05/23 <a href="https://www.b2b-cambodia.com/news/funan-techo-canal-approved-to-link-bassac-and-kep/">https://www.b2b-cambodia.com/news/funan-techo-canal-approved-to-link-bassac-and-kep/</a></li><br />
<li>Study on Bassac River-Kep sea waterway link finished. Hom Phanet, Phnom Penh Post 24/04/2022.<br />
<a href="https://www.phnompenhpost.com/business/study-bassac-river-kep-sea-waterway-link-finished">https://www.phnompenhpost.com/business/study-bassac-river-kep-sea-waterway-link-finished</a></li><br />
<li>Đại Vận Hà Phù Nam của Cam Bốt, trước âm mưu thâm độc của Bắc Kinh. Phạm Phan Long, P.E. Viet Ecology Foundation, October 09, 2023</li><br />
<li>Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng. Ngô Thế Vinh, Nhà xuất bản Văn Nghệ, California 2000.</li><br />
</ol>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-88695438605782156782023-10-16T18:45:00.006-07:002023-10-16T18:45:34.739-07:00Đại Vận Hà Phù Nam của Vương Quốc Cam Bốt - Âm mưu thâm độc của Bắc Kinh<p><em>Trung Quốc và Lào tích lũy nước</em><em>, phù sa và cắt đứt sinh lộ của di ngư trên sông Lancang-Mekong</em><em> tại các hồ chứa thủy điện của họ</em><em>, đe dọa sự sinh tồn của Cam Bớt và Việt Nam, nên đã đến lúc</em><em> Trung Quốc và Lào phả</em><em>i nhận trách nhiệm. Họ đã gây ra khô hạn cho hạ vực, chịu khát giữa mùa mưa. Ở Cam Bốt khoảng 70% châu thổ hữu ngạn sông Bassac không có nước, Biển Hồ đã</em><em> mất 56% nước chảy ngược và 20% điện tích đồng lũ. Ở Việt Nam châu thổ sông Cửu</em><em> Long có nước nhưng là nước mặn xâm nhập không phải nước ngọt. Hai nước hạ du vất vả tranh nhau phần nước mà thượng nguồn tùy tiện để sót lại.</em><em> Dự án Kênh Phù Nam</em><em> tại Cam Bốt do Trung Quốc đỡ đầu, tuy</em><em> nói là tuyến thủy vận </em><em>thôi nhưng vẫn có thể là kênh dẫn thủy nhập điền. Trung Quốc </em><em>có chiến lược khai thác mối hận thù giữa dân tộc </em><em>Cam Bốt và Việt Nam để chia rẽ họ, đồng thời viện trợ</em><em> tài trợ hàng chục tỉ Mỹ kim mua chuộc Lào và Cam Bốt</em><em>, ràng buộc họ thành con nợ, để cô lập Việt Nam.</em><em> Bài tham luận này trình bày một chiến lược </em><em>hoàn toàn mới cho Việt Nam và liên minh chiến lược cho Việt Nam và Cam Bốt để đối phó với Trung Quốc và Lào.<span></span></em></p><a name='more'></a><p></p>
<p><strong>Giới thiệu Kênh Phù Nam / Đại Vận Hà của Vương Quốc Cam Bốt</strong></p>
<p>Ủy ban sông Mekong quốc gia Cam Bốt (CB) đã công bố bản thông báo về kế hoạch đào kênh Phù Nam dưới tên Funan Techo Canal, dài 180 km, rộng 80 m tới 100 m, mực nước 4,7 m. Kênh đào này bắt đầu từ sông Mekong, nối sang sông Bassac và hướng ra vịnh Thái Lan. Song song hai bên kênh sẽ có 200 km đường cao tốc kết nối các thị trấn. Khi có hạ tầng cơ sở, phương tiện giao thông và nguồn cung cấp nước, tiềm năng phát triển kinh tế đồng bằng Tây Nam của CB sẽ vực dậy, kênh Phù Nam đã được chính quyền CB đánh giá có khả thi kinh tế rất cao.</p>
<p>Đại công ty quốc doanh China Communication Construction của Trung Quốc (TQ) đã bí mật thực hiện nghiên cứu khả thi từ hai năm trước. Công trình này sẽ được Belt and Road Initiative (BRI) của TQ tài trơ với kinh phí 1,7 tỉ Mỹ kim. [1]</p>
<p> Vào Thế kỷ 13, TQ đã đào Đại Vận Hà dài 1800 km cho dân tộc họ, đến nay vẫn là con kênh dài nhất thế giới, kênh Phù Nam có thể xem là một Đại Vận Hà của Vương Quốc Cam Bốt và dân tộc Khmer. </p>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgGABy5eKFEWanFXI1qpQWPLXNRee2MDac2wVN4lPmz2A_3CNSKKk_cTPXZ-4DN5f9w16hfM-B1e79poRbU3ah6c40pjCp7e8BgS3mwnAUGucwzhLS0vmoYSo3ETqQpTjKe9qYvYcCAm-LAXLcLEiMinraE-vNS1r0t4uXt4C6d8KF0rh-P1Z-VCurrUGs/s1180/6445-1.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1180" data-original-width="800" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgGABy5eKFEWanFXI1qpQWPLXNRee2MDac2wVN4lPmz2A_3CNSKKk_cTPXZ-4DN5f9w16hfM-B1e79poRbU3ah6c40pjCp7e8BgS3mwnAUGucwzhLS0vmoYSo3ETqQpTjKe9qYvYcCAm-LAXLcLEiMinraE-vNS1r0t4uXt4C6d8KF0rh-P1Z-VCurrUGs/w434-h640/6445-1.jpg" width="434" /></a></div><p style="text-align: center;"><i>Hình 1: Kênh Phù Nam, Funan Techo Canal. Nguồn: Mekong River Commission [1]</i></p><p style="text-align: center;"><i><br /></i></p>
<p><strong>Thủ tục duyệt xét dự án Kênh Phù Nam</strong> </p>
<p> Theo quy định PNPCA của Mekong River Commission (MRC) và Hiệp Định Mekong 1995, CB có trách nhiệm cung cấp báo cáo khảo sát kỹ thuật, Technical Review Report (TRR) với đánh giá tác động môi trường xuyên biên giới (TbEIA/ Environmental Impact Assessment) cho kênh đào Phù Nam của họ.[2]</p>
<p>Thủ tục PNCPA của MRC gồm ba giai đoạn: Thông báo-Tham Vấn và Thỏa hiệp [3]. VN không có trách nhiệm soạn thảo TRR/EIA và nộp cho CB như họ gởi văn thư yêu cầu. VN cũng không thể tự làm được vì không nắm được thiết kế, thông số và quy trình vận hành. Do đó không ai có thể đánh giá dự án này theo khoa học được nếu chỉ có bản Thông báo, Prior Notification rất sơ lược. </p>
<p><strong>Tác động môi trường của Kênh Phù Nam</strong></p>
<p><em>TS Brian Eyler, Stimson</em><em> Center (Mỹ)</em><em>được Radio Free Asia ph</em><em>ỏ</em><em>ng vấn</em><em>đã phát biểu </em><em>rằng: D</em><em>ự án kênh đào nhân tạo này có thể là chiếc đinh cuối cùng đóng vào quan tài (Đồng bằng sông Cửu Long), và do đó, cần có nhiều nghiên cứu hơn để hiểu rõ ảnh hưởng của nó. </em></p>
<p><em>Tính toán đơn giản cho thấy nó sẽ cần ít nhất 77 triệu mét khối nước để lấp đầy kênh Funan khi nó hoàn thành. Nước sẽ được chuyển từ dòng chính sông Mekong và sông Bassac. Lấy thêm nước ra khỏi sông Bassac và dòng chính sông Mekong có thể sẽ hạ thấp mực nước sông Mekong tại Phnom Penh với một lượng không xác định. </em> <br />
<em>Điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng đảo ngược dòng chảy Tonle Sap nổi tiếng. Đó là lực đẩy nước hàng năm từ dòng chính sông Mekong chảy ngược vào hồ Tonle Sap. Dòng chảy ngược này giúp cho Hồ Tonle Sap mở rộng gấp năm lần so với mức nước dâng thông thường vào mùa khô. </em> </p>
<p><em>Việc lượng nước Hồ Tonle Sap được mở rộng chính là trái tim tạo ra nhịp đập của sông Mekong. Đó là quá trình then chốt làm cho sông Mekong trở thành ngư trường nội địa lớn nhất thế giới, chiếm 20% sản lượng đánh bắt cá nước ngọt của thế giới. </em> </p>
<p><em>Từ trước đến nay đã có rất nhiều yếu tố tác động rồi, như việc xây đập ở thượng nguồn, khai thác cát, lượng mưa mùa mưa ít dữ dội hơn và các yếu tố khác đang làm giảm khả năng mở rộng lượng nước theo mùa của Hồ Tonle Sap. </em><em>[4]</em></p>
<p><em>Kỹ sư Thuỷ học Đỗ Văn Tùng, P.Eng từng là kỹ sư tham vấn cho nhiều công ty Mỹ và Canada, cho rằng: “Nếu c</em><em>on kênh này bắt đầu từ Prek Takeo nối dòng chính sông Mekong và sẽ gặp sông Bassac ở hạ lưu. Sau khi hoàn thành</em><em>,</em><em> con kênh dài 180 km này sẽ cần khoảng 80 triệu</em><em> mét</em><em> khối nước để thông thương. Sau đó lưu lượng dòng chảy trong kênh sẽ tùy thuộc vào chênh lệch cao độ giữa đầu và cuối con kênh</em><em>, cùng với </em><em>ảnh hưởng của thủy triều. Lưu lượng nước này sẽ lấy từ sông Mekong và Bassac. Ảnh hưởng như thế nào ở mỗi mùa đối với</em><em> Biển H</em><em>ồ Tonle Sap và ĐBSCL vẫn chưa rõ. Cần phải có một mô hình điện toán về thủy lực</em><em> [Hydr</em><em>au</em><em>lic modeling] </em><em>mới tính được chính xác. Nhưng</em><em> có m</em><em>ột điều chắc chắn là trong mùa khô nước ở ĐBSCL sẽ ít hơn làm vấn đề nhiễm mặn trầm trọng hơn</em><em>”</em><em>.</em></p>
<p>Ngoài dung tích 77 triệu mét khối dung tích cần có ban đầu, phải tính thêm lượng nước hàng năm các âu tàu phải xả ra là 113 triệu mét khối. Đáng quan tâm hơn nữa là về sau khi có con kênh này rồi, CB có thể đơn phương bơm nước từ kênh này ra tưới khắp châu thổ vùng Takeo suốt lộ trình 180 km cho tới vịnh Thái Lan. Khi đó CB không phải chỉ cắt 113 triệu mét khối mỗi năm không cho về châu thổ Cửu Long như họ thông báo, mà sẽ nhiều lần hơn thế, không thể nào lường được, lúc đó VN có lẽ sẽ bó tay. </p>
<p>Kênh Phù Nam sẽ gây tác động nhất định lên Biển Hồ (BH) chính CB phải rất quan tâm vì nhiều năm rồi BH đã bị mất dần nhịp lũ khi thêm kênh Phù Nam cùng chảy với sông Tiền và Hậu ra biển Đông thì liệu nhịp lũ cho Biển Hồ còn tồn tại được không? </p>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgU7356ZGCxkXpBkiuZG2b7lt9ze7vNretpBVq2MlQFaqdL_CYkkBmdrUpqoZqmbyTxHAmEWe_jq1YNaNQ4CvqMrVGHgrmllTyZOwpNMlPnPpThzPvAwNwDeTP0jxOTb_h64FJq8xaBLsnkZ_0pIXqBW8GqlJeIqobCJpA2doTUPQQ5rrhFueGCXc15Spc/s911/6445-2.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="911" data-original-width="600" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgU7356ZGCxkXpBkiuZG2b7lt9ze7vNretpBVq2MlQFaqdL_CYkkBmdrUpqoZqmbyTxHAmEWe_jq1YNaNQ4CvqMrVGHgrmllTyZOwpNMlPnPpThzPvAwNwDeTP0jxOTb_h64FJq8xaBLsnkZ_0pIXqBW8GqlJeIqobCJpA2doTUPQQ5rrhFueGCXc15Spc/w422-h640/6445-2.jpg" width="422" /></a></div><p style="text-align: center;"><i>Hình 2: Tình trạng khô hạn giữa mùa mưa (Nguồn:Stimson Center)</i></p><p style="text-align: center;"><i><br /></i></p>
<p>Thậy vậy, nhóm nghiên cứu của TS Samuel De Xun Chua, Department of Geography, National University of Singapore đã khảo sát nhịp lũ suốt 60 năm tại BH và công bố tình trạng suy thoái như sau:</p>
<p><em>“Chúng tôi thấy rằng … thời gian mùa lũ đã giảm khoảng 26 ngày (Kampong Cham) và 40 ngày (Chaktomuk), mùa lũ bắt đầu muộn hơn và kết thúc sớm hơn nhiều. Dọc sông Tonle Sap, dòng chảy ngược trung bình hàng năm từ sông Mê Kông đến hồ Tonle Sap đã giảm 56,5 %, từ 48,7 km3 năm 1962–1972 xuống còn 31,7 km3 năm 2010–2018. Kết quả là mực nước mùa mưa tại hồ Tonle Sap giảm 1,05 m trong năm 2010–2019 so với năm 1996–2009, tương ứng với diện tích hồ giảm 20,6 %.” [</em><em>5</em><em>]</em></p>
<p><strong>Phạm vi nghiên cứu đánh giá tác động môi trường cần thiết cho Kênh Phù Nam</strong></p>
<p>Báo cáo đánh giá tác động môi trường xuyên biên giới phải xét tác động tích hợp của kênh Phù Nam cùng với hoạt động của các đập thủy điện trong toàn lưu vực qua các tình huống mưa nhiều cũng như khô hạn. Vận chuyển trên kênh phải tùy vào mực nước ấy. Phạm vi nghiên cứu cần phải có Biển Hồ, lưu vực Tonle Sap ở CB và ĐBSCL ở VN, từ Nam Vang theo các dòng nước ra biển Đông vì đó là một hệ sinh thái không thể tách riêng khi khảo sát ảnh hưởng tác động môi trường.</p>
<p><strong>Chiến lược Việt Nam đối với Cam Bốt và MRC cho Kênh Phù Nam</strong></p>
<p>VN có khá nhiều phương cách ràng buộc CB tuân theo các thủ tục của MRC để kiểm soát kênh Phù Nam. Giới hạn trọng tải tàu thuyền trên kênh Phù Nam theo đúng công bố của CB là 1000 DWT. Nam Vang sẵn có hai thương cảng, có khả năng cho tàu 2000 DWT và 5000 DWT ra vào nên CB sẽ vẫn cần vận chuyển tàu bằng sông Tiền và có thể cả sông Hậu. Do đó VN có tư thế thảo luận với CB với tiếng nói trọng lượng.</p>
<p>Về chiến lược, đối với Mekong River Commission (MRC), VN và CB đều không có chiến lược lớn nên chưa hề ngăn được một con đập nào mà đã mất nhịp lũ, phù sa và nông ngư sản, thậm chí còn cảnh hạn hán giữa mùa mưa, xâm mặn và sói lở ngày càng sâu. MRC đã trở thành cao tốc thông thoáng cho các đập Xayaburi, Don Sa Hong, Pak Lay, Pak Beng, Sanakham và Luang Prabang của Lào lần lượt được MRC thông qua, có TQ và Thái Lan sẵn sàng tài trợ và cố vấn.</p>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjksAsJm-ov-2FI7bkeD10iyBfssSyWBPTtRKV0OLlP_wCEKAHsK5Tpo3mPT8Wp6q6H2sXem0fdcZdthIxfE-xP6_40L7X_8IHYucWPCmsOo-dC4QhbTFPplpZpHPAA1h7qVBALGivtzPJv9Zk_sFMiqfM1amMAkmocm7LdmhQx9vFvuCc3eSzpTWt1p24/s662/6445-3.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="662" data-original-width="600" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjksAsJm-ov-2FI7bkeD10iyBfssSyWBPTtRKV0OLlP_wCEKAHsK5Tpo3mPT8Wp6q6H2sXem0fdcZdthIxfE-xP6_40L7X_8IHYucWPCmsOo-dC4QhbTFPplpZpHPAA1h7qVBALGivtzPJv9Zk_sFMiqfM1amMAkmocm7LdmhQx9vFvuCc3eSzpTWt1p24/w580-h640/6445-3.jpg" width="580" /></a></div><p style="text-align: center;"><i>Hình 3: Vị trí những con đập trên Lancang Mekong (Nguồn: The Third Pole)</i></p><p style="text-align: center;"><i><br /></i></p>
<p>Với kênh Phù Nam, VN có thể đặt CB trước trách nhiệm bảo vệ lưu vực đúng theo năm Thủ tục và Hướng dẫn MRC đã thông qua, đặc biệt nhất là cho dòng chính với Procedures for the Maintenance of Flows on the Mainstream: </p>
<ol>
<li>Thông báo đến thỏa hiệp (PNPCA). </li><br />
<li>Theo dõi, báo cáo vận hành kênh đào, không vi phạm những thông số giới hạn đã quy định (PWUM). </li><br />
<li><strong><em>Bảo trì </em></strong><strong><em>lưu lượng cần thiết tại </em></strong><strong><em>dòng chính theo </em></strong><strong><em>từng tháng (PMFM)</em></strong><strong><em> Mekong và Bassac. Xem Hình 2, kênh Phù Nam sẽ không được chuyển nước gây xâm phạm vào lượng nước cung cấp cho hạ du sử dụng và đáp ứng nhu cầu sinh thái</em></strong><strong><em>.</em></strong><strong> </strong></li><br />
<li>Bảo vệ phẩm chất nước sông (PWQ). </li><br />
<li>Cung cấp thông tin và số liệu quan trắc (PDIES). </li>
</ol>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgxnD0HSvl66HpNeGvEgPcpMoaUa7ESwUg14z2mAJTdFwB3Hp5mo0IUsUiV7sbjuqDoqDFaeI82wt4Dr9072406nchOGlvpvr0P7AbD1V5lG-46YuyNPnEL3o0wyiU0eSGAQwzQ5MPIdC39JEn6ShcOEt1cE11PH5Mkv85iJVZ3_PWeg9m3WWO4cvTdndY/s600/6445-4.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="270" data-original-width="600" height="288" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgxnD0HSvl66HpNeGvEgPcpMoaUa7ESwUg14z2mAJTdFwB3Hp5mo0IUsUiV7sbjuqDoqDFaeI82wt4Dr9072406nchOGlvpvr0P7AbD1V5lG-46YuyNPnEL3o0wyiU0eSGAQwzQ5MPIdC39JEn6ShcOEt1cE11PH5Mkv85iJVZ3_PWeg9m3WWO4cvTdndY/w640-h288/6445-4.jpg" width="640" /></a></div><p style="text-align: center;"><i>Hình 4: Đường màu đỏ là mức nước dòng chính cần phải ̃bảo vệ theo PMFM (Nguồn MRC) [2]</i></p><p style="text-align: center;"><i><br /></i></p>
<p>Nếu CB tuân theo những hướng dẫn ghi trên, nhất là PMFM cho Châu Đốc, Tân Châu và Biển Hồ, cùng với các tác động môi sinh có biện pháp giảm thiểu được, thì cơ hội hợp tác hai nước cho kênh Phù Nam thành sự thật không phải không thể. </p>
<p><strong>Chiến lược </strong><strong>toàn diện lâu dài </strong><strong>cho Cam Bốt và Việt Nam đối với Trung Quốc</strong></p>
<p>Từ 1995 TQ đã kích thích sự chia rẽ giữa hai dân tộc, CB-VN không hậu thuẫn cho nhau để TQ và Lào dễ dàng khai thác thủy điện trên dòng Mekong. TQ dẫn dắt Lào biến họ trở thành bình điện của Đông Nam Á. Kết quả trước mắt CB và VN hưởng ít lợi nhất nhưng gánh tất cả thiệt thòi, tình trạng bất công này vi phạm tôn chỉ của Công ước Liên Hiệp quốc 1997 cho các dòng sông quốc tế [6]. Nguyên tắc không gây nguy hại (Do no harm) và chia sẻ công bằng hợp lý (Equitable and Reasonable Utilization ) giữa các nước không được thực hiện mà tổ chức MRC nghiễm nhiên đi ngược với tôn chỉ của HĐ 1995 lập ra tổ chức này. </p>
<p>Kênh Phù Nam có thể là cái đinh cuối trên nắp quan tài ĐBSCL theo quan sát của TS Brian Eyler [6]. Thực ra chính TQ đã đem quan tài này cho CB và VN xô đẩy nhau ngã vào. Kênh Phù Nam với quyết tâm của CB có lẽ sẽ tiến hành, VN có thể phản đối như từng phản đối các dự án của Lào, nhưng nếu thỏa hiệp được với CB cùng bảo vệ BH và ĐBSCL dựa vào các thủ tục MRC quy định nói trên có lẽ thiết thực hơn. </p>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj8E7c3HvH3LpUIi-RVClDDw2J5zGHVJwdB_RAc3YfFCUQa844NK6bbpDTzXhUgdrlaQAfzs_kDNIW3VGH_rTjbWF5zIP-EIVK7Tiq6gNU9FCV4P9PaBR073xRwCsQ5xbavPoeg_ulJs7alXFGecujK326L1-70OMfnjBHBAB2hnyodig3kVhJmgQtfVbc/s1233/6445-5.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="1233" data-original-width="900" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj8E7c3HvH3LpUIi-RVClDDw2J5zGHVJwdB_RAc3YfFCUQa844NK6bbpDTzXhUgdrlaQAfzs_kDNIW3VGH_rTjbWF5zIP-EIVK7Tiq6gNU9FCV4P9PaBR073xRwCsQ5xbavPoeg_ulJs7alXFGecujK326L1-70OMfnjBHBAB2hnyodig3kVhJmgQtfVbc/w468-h640/6445-5.jpg" width="468" /></a></div><p style="text-align: center;"><i>Hình 5: Vi trí các con đập trên toàn lưu vực Lancang Mekong (Nguồn: Stimson Center)</i></p>
<p><strong><em>Trước dự án </em></strong><strong><em>kênh Phù Nam,</em></strong><strong></strong><strong><em>CB và VN</em></strong><strong><em> cần tìm cách hợp tác và tránh gây tranh chấp. Đừng cho TQ khai thác cơ hội biến Phù Nam thành biểu tượng xung đột</em></strong><strong><em> giữa ha</em></strong><strong><em>i dân tộc. CB và VN đều phải nhận thấy âm mưu thâm độc của TQ và n</em></strong><strong><em>hảy ra khỏi cỗ quan tài</em></strong><strong></strong><strong><em>Made-in-China </em></strong><strong><em>bằng một liên minh c</em></strong><strong><em>hiến lươ</em></strong><strong><em>̣c </em></strong><strong><em>toàn diệ</em></strong><strong><em>n </em></strong><strong><em>bảo vệ quyền lợi</em></strong><strong><em> cho phần lưu vực chung c</em></strong><strong><em>ho</em></strong><strong><em> cả hai nước CB-VN.</em></strong></p>
<p><strong><em>Mục đích hợp tác chiến lược</em></strong><strong><em> ở mức cấp c</em></strong><strong><em>ao nhất cho hai nước là cùng làm bản tuyên ngôn chung “Không chấp nhận cho thêm con đập nào nữa”, và “Yêu cầu giới hạn hoạt động các đập thượng nguồn để bảo vệ và phục hồi nhịp lũ cho môi sinh Biển Hồ, vựa cá của dân tộc CB và ĐBSCL, vựa thóc của dân tộc VN”. </em></strong></p>
<p><strong><em>Trong tương lai </em></strong><strong><em>xa, hai nước cần </em></strong><strong><em>nhắm tới một hiệp ước toàn lưu vực, đầy đủ và chặt chẽ </em></strong><strong><em>hơn HĐ 1995, đó là “</em></strong><strong><em>Lancang-Mekong </em></strong><strong><em>Initiative” hay </em></strong><strong><em>“Lancang-Mekong River Treaty” theo Công ước 1997 của Liên Hiệp quốc </em></strong><strong><em>[</em></strong><strong><em>7</em></strong><strong><em>] </em></strong><strong><em>và lập qũy “Lancang-Mekong Fund” để trợ giúp dân cư khắp lưu vực chia sẻ lợi ích và đ</em></strong><strong><em>ề</em></strong><strong><em>n b</em></strong><strong><em>ù</em></strong><strong><em> thiệt hại công bằng</em></strong><strong><em> cho họ</em></strong><strong><em>.</em></strong> </p>
<p>KS Phạm Phan Long, P.E.<br />
Chairman<br />
Viet Ecology Foundation</p>
October 10, 2023
<p><strong>Nguồn tham khảo</strong></p>
<ol>
<li>Report 202381_CNMC-MRC_Funan-Techo-Canal-Notification</li><br />
<li><a href="https://www.mrcmekong.org/resource/aqrsbk">https://www.mrcmekong.org/resource/aqrsbk</a></li><br />
<li><a href="https://www.mrcmekong.org/assets/Publications/95MA-Hb.pdf">https://www.mrcmekong.org/assets/Publications/95MA-Hb.pdf</a></li><br />
<li><a href="https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/funan-canal-in-cambodia-the-final-nail-in-the-coffin-of-the-mekong-delta-10032023123358.html">https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/funan-canal-in-cambodia-the-final-nail-in-the-coffin-of-the-mekong-delta-10032023123358.html</a></li><br />
<li><a href="https://hess.copernicus.org/articles/26/609/2022/">HESS – Drastic decline of flood pulse in the Cambodian floodplains (Mekong River and Tonle Sap system) (copernicus.org)</a></li><br />
<li><a href="https://legal.un.org/ilc/texts/instruments/english/conventions/8_3_1997.pdf">https://legal.un.org/ilc/texts/instruments/english/conventions/8_3_1997.pdf</a></li><br />
<li><a href="http://vietecology.org/article/article/64">http://vietecology.org/article/article/64</a></li><br />
</ol>
Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-91986102485262184422023-10-01T18:55:00.001-07:002023-10-01T18:55:06.014-07:00THẾ HỆ TÔI - Ma Génération<p><strong><em>Thế hệ của thi sĩ khi lớn lên bị bánh xe của lịch sử đẩy vào cái thế phải viết một trang sử thật bi hùng,</em></strong><strong></strong><strong><em>phải đấu tranh quyết liệt vì số mạng và định mệnh của cả một dân tộc và đất nước Ukraine có cơ nguy bị diệt vong và vứt bỏ vào đống rác của lịch sử</em></strong><strong><em>. </em></strong><strong><em>Sự chiến đấu của thế hệ này rất gay go với cái chết thật cận kề có thể tới bất cứ lúc nào, chỉ còn biết tin vào lòng thương của Chúa nên họ chỉ muốn chúng ta nhìn thấy họ là những con người có "cơn giận dữ và có tình yêu say đắm" và họ phải chọn để quyết tâm tranh đấu vì "một bóng đen đã được dựng lên</em></strong><strong><em>,</em></strong><strong><em>" nếu không chống lại nó thì cái bóng đen đó sẽ lớn rộng ra và sẽ làm nghẹt thở và hủy diệt cả thế hệ lẫn cả dân tộc họ</em></strong><strong><em>. </em></strong><strong><em>Họ chỉ có mong ước là khi ai đọc các dòng chữ này thì sẽ hiểu rõ rằng:</em></strong><strong></strong><strong><em>"Chúng tôi đã chiến đấu thật xứng đáng."</em></strong><strong></strong><strong><em>Slava Ukraini,</em></strong><strong></strong><strong><em>Glory to Ukraine!</em></strong><strong></strong><strong> ĐVV</strong><strong></strong></p>
<p style="text-align: center;"><br /></p><p style="text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1VvrnAJ85XqxzXg-_SbcVLIWYbNW0FWpEsSZFUfm9yztnaMIgFUetRqIp6y74Ta4-6p8OqgORk1Jsih-Aez7TEKiphZXHCMJz-WVODskjrO2udirjaf5W0ioqMf89GzMDdqvAxnebflPE3bGKjAEXxqulkz7g3ZSfJewNFvfaRkJ5bvhuwT57uCpar2g/s894/TheHeToi.png" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="892" data-original-width="894" height="399" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1VvrnAJ85XqxzXg-_SbcVLIWYbNW0FWpEsSZFUfm9yztnaMIgFUetRqIp6y74Ta4-6p8OqgORk1Jsih-Aez7TEKiphZXHCMJz-WVODskjrO2udirjaf5W0ioqMf89GzMDdqvAxnebflPE3bGKjAEXxqulkz7g3ZSfJewNFvfaRkJ5bvhuwT57uCpar2g/w400-h399/TheHeToi.png" width="400" /></a></p><span><a name='more'></a></span><center><p>L’Histoire est longue dans les livres – mais dans la vie elle passe comme l’éclair,<br />
<strong><em>Ở trong sách, lịch sử thì dài nhưng ở ngoài đời nó đi qua tựa tia sét,</em></strong></p>
<p>Ma génération en écrit une page avec des larmes et du feu<strong></strong><br />
<strong><em>Trong đó, thế hệ chúng tôi viết một trang bằng ngọn lửa và bằng nước mắt</em></strong></p>
<p>Oubliez la liste des manoeuvres militaires. Regardez comme nous sommes entêtés.<br />
<strong><em>Hãy quên đi danh sách điều động quân. Hãy nhìn chúng tôi cứng đầu thế nào.</em></strong></p>
<p>Regardez comme nous rions en regardant la mort en face.<br />
<strong><em>Hãy nhìn thấy chúng tôi cười thế nào khi nhìn cái chết ngay trước mặt. </em></strong></p>
<p>Regardez nous danser dans les ruines, les postes de contrôle, les tranchées,<br />
<strong><em>Hãy nhìn thấy chúng tôi nhảy múa trong những đổ nát, những trạm canh, những chiến hào. </em></strong></p>
<p>Des débris par par-dessus la tête, des cendres qui s’envolent sous nos pieds,<br />
<strong><em>Bên trên đầu là những mảnh vụn, dưới bàn chân bay lượn những than tro,</em></strong></p>
<p>L’art contemporain s’invente dans les caves pour ceux qui n’ont pas de veine.<br />
<strong><em>Nghệ thuật hiện đại tự phát minh trong những hầm cho những ai không may mắn. </em></strong></p>
<p>Ma génération pleure de facon à ce que personne ne la voie.<br />
<strong>Thế hệ của chúng tôi khóc có cách mà không để ai thấy được nó.</strong></p>
<p>Si on jetait tout le sel des salines sur les souffrances du monde,<br />
<strong><em>Nếu người ta ném tất cả muối của những vại muối trên những đau khổ của thế gian,</em></strong></p>
<p>La plupart fleurirait dans nos plaies, comme feurissent les adonis.<br />
<strong><em>Hầu hết chúng sẽ nở ra hoa trong các vết thương của chúng tôi như những hoa adonis nở.</em></strong></p>
<p>Car pour chaque vie alentour, malheur et bonheur sont les mêmes.<br />
<strong><em>Vì cho mỗi cuộc đời ở xung quanh, bất hạnh và hạnh phúc thì hệt nhau.</em></strong></p>
<p>Tendez l’oreille – Écoutez les chants qui s’élèvent des prisons.<br />
<strong><em>Hãy lắng tai, hãy lắng nghe những tiếng hát vọng nổi lên từ các ngục tù.</em></strong></p>
<p>Une seconde avant de lancer l’attaque, nous nous recommandons à Dieu,<br />
<strong>Một giây trước phát động tấn công, chúng tôi tự gửi gắm mình cho Chúa,</strong></p>
<p>S’il existe, il porte l’uniforme de ma génération.<br />
<strong><em>Nếu có Chúa, Chúa sẽ mang đồng phục của thế hệ tôi.</em></strong></p>
<p>Qui sait s’il nous accueillera ? il n’y a nul saint parmi nous.<br />
<strong><em>Có ai biết Chúa sẽ đón nhận chúng tôi ? Chẳng ai là thánh thiện giữa chúng tôi.</em></strong></p>
<p>Regardez notre fureur, regardez notre amour passionné.<br />
<strong><em>Hãy nhìn sự giận dữ của chúng tôi, hãy nhìn tình yêu say đắm của chúng tôi. </em></strong></p>
<p>Lorsqu’une ombre noire s’est dressée de Marioupol jusqu’à la Hoverla,<br />
<strong><em>Khi một bóng tối đen được dựng đứng từ Marioupol đến Hoverla,</em></strong></p>
<p>Nous nous sommes battus comme si c’était la dernière fois,<br />
<strong><em>Chúng tôi chiến đấu như nếu đó đã là lần cuối, </em></strong></p>
<p>Et les meilleurs d’entre nous sont morts.<br />
<strong><em>Và những người tốt nhất trong chúng tôi đã bỏ mình.</em></strong></p>
<p>Mais si, tout comme nous, avec joie et détemination,<br />
<strong><em>Nhưng nếu, giống như chúng tôi, với niềm vui và quyết tâm, </em></strong></p>
<p>Tu lis ceci à voix haute en Ukrainien<br />
<strong><em>Anh đọc lớn giọng bài này bằng tiếng Ukraine </em></strong></p>
<p>Alors nous avons lutté dignement.<br />
<strong><em>Như vậy chúng tôi đã chiến đấu một cách xứng đáng.</em></strong></p><p><strong><em><br /></em></strong></p>
<p>
Pavlo Vyshebaba, du front d’Ukraine, juin 2022<br />
[bản tiếng Việt dịch từ tiếng Pháp của Đặng-Vũ Vương]
</p>
</center><span><!--more--></span><span><!--more--></span>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-51976833937202399632023-10-01T18:39:00.002-07:002023-10-01T18:47:30.477-07:00MỘT DÂN TỘC RA ĐỜI - Un Peuple Naît<p><strong><em>Trên 2000 năm trước đây trong một máng nuôi gia súc, một Hài nhi đã sinh ra đời và bạo chúa Herod đã cho lính đi lùng và tìm giết hết trẻ sơ sinh trai để cố giết hại Hài nhi đó. Được hướng dẫn bởi một vì sao đến nơi máng đó có 3 vị thông thái mang quà biếu và Tin lành này</em></strong><strong></strong><strong><em>sau đó được vang dội khắp nơi Ukraine tuy giành được độc lập từ sau ngày Liên xô Nga bị tan vỡ nhưng vẫn bị khống chế bằng mọi cách bởi nước Nga rồi Nga cướp đất và hiện nay xâm chiến và đánh phá Ukraine để xóa bỏ quốc gia này khỏi bàn đồ nhưng không ngờ hành động tàn bạo này của tên Herod tân thời,</em></strong><strong></strong><strong><em>V.Putin đã khai sinh ra một dân tộc được nhận thức rõ ràng là họ có một ngôn ngữ,</em></strong><strong></strong><strong><em>một nền văn hóa và lịch sự đặc thù của họ (mà Putin muốn xóa bỏ và Nga hóa để kết hợp và hòa đồng vào Nga tộc)</em></strong><strong></strong><strong><em>và họ cố can trường tranh đấu để giữ cái "căn cước Ukrainian" của họ và cái quyền được chính họ quyết định vận mệnh của dân tộc họ</em></strong><strong><em>. </em></strong><strong><em>Với lòng tin sắt đá vào sự giúp đỡ linh thiêng của Đấng Tối Cao,</em></strong><strong></strong><strong><em>của những phép lạ, của những sự giúp đỡ của các nước bạn và sự hy sinh xương máu của chính họ thì dân tộc này ra đời thật an toàn và vinh quang tựa giống như Đấng Hài nhi trong Thánh Kinh</em></strong><strong><em>.</em></strong><strong> ĐVV</strong><strong></strong></p>
<p align="center">*</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgb0p5WI7q5NVVwG2h5av4H4d6bLz2e9gbUG6Ef38vMMIWXtHogIv9OVn7OkbFPmONknl7nOYHDhp_FvdkXkgrQHqVqOmDyormLGdhwiqq_3VNsYAjJbVO6N6uqmS2ySDkEUlc6z-J5JccRtq3kwqwpH3RUqt8Y0-NdGiDzro9mFtr3xGZmP5YFx3ndGGU/s889/MotDanTocRaDoi.png" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="879" data-original-width="889" height="395" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgb0p5WI7q5NVVwG2h5av4H4d6bLz2e9gbUG6Ef38vMMIWXtHogIv9OVn7OkbFPmONknl7nOYHDhp_FvdkXkgrQHqVqOmDyormLGdhwiqq_3VNsYAjJbVO6N6uqmS2ySDkEUlc6z-J5JccRtq3kwqwpH3RUqt8Y0-NdGiDzro9mFtr3xGZmP5YFx3ndGGU/w400-h395/MotDanTocRaDoi.png" width="400" /></a></div><span><a name='more'></a></span><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><br /></div><p>
</p><center>
<p>Il est cinq heures, Kiev s’éveille<strong> </strong><br />
<strong><em>Kiev tỉnh thức dậy lúc năm giờ sáng</em></strong></p>
<p>Un feu illumine le ciel noir<br />
<strong><em>Một ngọn lửa soi sáng bầu trời đen</em></strong></p>
<p>Est-ce une étoile ou un missile en flammes ?<br />
<strong><em>Đó phải chăng một vì sao hay một hoả tiễn bốc cháy</em></strong></p>
<p>Un peuple naît, glorifions-le. <br />
<strong><em>Một dân tộc ra đời, ta hãy vinh danh họ.</em></strong></p>
<p>Dans le hurlement violent des sirènes<br />
<strong><em>Trong tiếng rú dữ dội của những còi hú </em></strong></p>
<p>La bonne nouvelle pourtant se propage<br />
<strong><em>Cái tin mừng tuy vậy vẫn toả lan</em></strong></p>
<p>À travers la Terre, à travers les veines<br />
<strong><em>Băng qua Trái Đất, băng qua những luồng mạch</em></strong></p>
<p>Un peuple naît, glorifions-le.<br />
<strong><em>Một dân tộc ra đời, ta hãy vinh danh họ.</em></strong></p>
<p>Etonnés par cette lumière qui jamais ne s’éteint<br />
<strong><em>Ngạc nhiên bởi ánh sáng đó chẳng bao giờ tắt</em></strong></p>
<p>Les mages s’avancent, guidés par l’étoile<br />
<strong><em>Những pháp sư tiến bước, hướng dẫn bởi vì sao </em></strong></p>
<p>Ils apportent les cadeaux dans la crèche<br />
<strong><em>Vào trong nôi, họ mang đến những quà biếu </em></strong></p>
<p>Un peuple naît, glorifions-le.<br />
<strong><em>Một dân tộc ra đời, ta hãy vinh danh họ.</em></strong></p>
<p>Même si l’armée d’Hérode aux centaines d’ailes<br />
<strong><em>Dù với hàng trăm cánh, đạo quân của Herode</em></strong></p>
<p>Répand sa rage avec son immonde fouet…<br />
<strong><em>Trải rộng cơn thịnh nộ với chiếc roi bẩn nhơ…</em></strong></p>
<p>Protégé par une force suprême<br />
<strong><em>Được một sức mạnh tối cao che chở họ</em></strong></p>
<p>Un peuple naît, glorifions-le.<br />
<strong><em>Một dân tộc ra đời, ta hãy vinh danh họ.</em></strong></p>
<p>Viennent les miracles formés par ses mains<br />
<strong><em>Tới những phép lạ được hình thành do tay họ</em></strong></p>
<p>Malgré les blessures, si difficiles à guérir,<br />
<strong><em>Dù những chấn thương quá khó để trị lành</em></strong></p>
<p>Dans le sang, dans les larmes et dans la souffrance<br />
<strong><em>Trong giọt máu, trong nước mắt và trong đau khổ</em></strong></p>
<p>Un peuple naît, et je le glorifie.<br />
<strong><em>Một dân tộc ra đời và tôi vinh danh họ</em></strong></p>
<p> </p>
<p><em>Pavlo Vyshebaba, du front d’Ukraine, juillet 2022<br />
[bản tiếng Việt dịch từ tiếng Pháp của Đặng-Vũ Vương]
</em></p>
</center><p></p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-39353373594270959572023-09-22T20:57:00.002-07:002023-09-22T20:59:54.720-07:00Thư cho vợ và con gái trong chiến tranh<div style="text-align: center;">Đinh Quang Anh Thái</div><div style="text-align: center;">
<iframe allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture; web-share" allowfullscreen="" frameborder="0" width="100%" height="400" src="https://www.youtube.com/embed/WUkGS_A7a9I" title="Đinh Quang Anh Thái | Thư cho vợ và con gái trong chiến tranh"></iframe></div>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-64269345763170539352023-07-21T20:57:00.005-07:002023-07-21T20:59:26.137-07:00Đinh Quang Anh Thái | Trần Mộng Tú, Phụ Nữ và Chiến Tranh
<iframe allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture; web-share" allowfullscreen="" frameborder="0" height="380" src="https://www.youtube.com/embed/XoDRk8gsomw" title="Đinh Quang Anh Thái | Trần Mộng Tú, Phụ Nữ và Chiến Tranh" width="653"></iframe>
Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-24473272525099983452023-07-12T00:29:00.009-07:002023-07-17T20:51:47.254-07:00TRẦN MỘNG TÚ PHỤ NỮ VÀ CHIẾN TRANH<p></p><div style="text-align: center;"><strong><em>Anh tặng em mùi máu</em></strong></div>
<strong><div style="text-align: center;"><strong><em>Trên áo trận sa trường</em></strong></div></strong><div style="text-align: center;"><strong><em>Máu anh và máu địch</em></strong></div>
<strong><div style="text-align: center;"><strong><em>Xin em cùng xót thương</em></strong></div></strong><p></p>
<p></p><div style="text-align: center;"><strong>Trần Mộng Tú</strong></div>
<strong><div style="text-align: center;"><strong>[Quà Tặng Trong Chiến Tranh, 1969]</strong></div></strong><p></p>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjoYajcs0qtzxMf86PHIEmW1jtUbsCfy62E8RVVU-sN-hypimuc95omisjOB2Rd_kvENG2X80ee5nRQ3JYL5x9Jp-9mLRaPKe-I86OfilM11k01cqUITx7eStDbfrSAEchErPFrZMt6f57cF4DMQnjkys_-sY5ljxbJqJKOYxrDfNyCn6qmP0thMO8slLQ/s620/tran-mong-tu-1.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="465" data-original-width="620" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjoYajcs0qtzxMf86PHIEmW1jtUbsCfy62E8RVVU-sN-hypimuc95omisjOB2Rd_kvENG2X80ee5nRQ3JYL5x9Jp-9mLRaPKe-I86OfilM11k01cqUITx7eStDbfrSAEchErPFrZMt6f57cF4DMQnjkys_-sY5ljxbJqJKOYxrDfNyCn6qmP0thMO8slLQ/s320/tran-mong-tu-1.jpg" width="320" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 1: </em></strong><em>Thẻ “nhà báo” của Trần Mộng Tú khi làm cho hãng thông tấn AP (Associated Press] Sài Gòn; thẻ này do MACV (US Military Assistance Command, Vietnam) cấp, chỉ có giá trị mỗi 3 tháng</em>. [tư liệu TMT]<span></span></p><a name='more'></a><p></p>
<p><strong>PHỤ NỮ GIỮA CHIẾN TRANH VIỆT NAM: THỜI ĐIỂM 1969 </strong></p>
<p><strong>Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình [Visions of War, Dreams of Peace] [1]</strong> là nhan đề một tuyển tập thơ của các nhà thơ nữ; nếu là Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, họ đã là những nữ quân nhân như y tá, bác sĩ đã từng chăm sóc các thương bệnh binh; nếu ở những ngành nghề khác, họ đảm trách các dịch vụ không tác chiến như chuyên viên truyền tin, tiếp vận, kiểm soát không lưu, nhân viên Hồng Thập Tự... Nếu là người Việt, họ là những phụ nữ thuộc hai miền Nam hay Bắc, với những trải nghiệm khác nhau, qua những năm tháng chiến tranh. Và như từ bao giờ, cho dù ở đâu, <strong>phụ nữ và trẻ em vẫn là thành phần dễ bị tổn thương nhất trong chiến tranh</strong>. </p>
<p>Trong tập thơ này, có 34 nhà thơ nữ Hoa Kỳ, và sáu nhà thơ nữ Việt Nam:<strong> Xuân Quỳnh</strong> (My Son’s Childhood), <strong>Hương Tràm</strong> (The Vietnamese Mother), <strong>Hà Phương</strong> (To An Phu, From This Distance I Talk To You), <strong>Trần Mộng Tú</strong> (The Gift In Wartime, Dream of Peace), <strong>Minh Đức Hoài Trinh</strong> (Poem Without Name), <strong>Nguyễn Ngọc Xuân</strong> (My Letter to the Wall). </p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgiw-Ypy0ujwtPRgXirfn9aeDCT6BhSEm6Y6JmoLlXdZZ_RvpUgFiJWGafS_Yo7zJDZK9BO8dSh8QMw3E7MwN1BeXLF_fvacDXbyef19IS_Bxi5gmv7i6O5pc7JxaNSlhH5bbzkUMiJvShKhphhsPHbYv3yAJL5NRBGmAUen5hp1VFfKzRZlI-4dUd_qyA/s849/tran-mong-tu-2.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="450" data-original-width="849" height="341" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgiw-Ypy0ujwtPRgXirfn9aeDCT6BhSEm6Y6JmoLlXdZZ_RvpUgFiJWGafS_Yo7zJDZK9BO8dSh8QMw3E7MwN1BeXLF_fvacDXbyef19IS_Bxi5gmv7i6O5pc7JxaNSlhH5bbzkUMiJvShKhphhsPHbYv3yAJL5NRBGmAUen5hp1VFfKzRZlI-4dUd_qyA/w640-h341/tran-mong-tu-2.jpg" width="640" /></a></div><p align="center"><strong><em>Hình 2: </em></strong><em>trái,<strong> </strong>hình bìa cuốn sách </em><strong>Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình [Visions of War, Dreams of Peace</strong>] <strong>[1]</strong><em> Nxb </em><em>Warner Books 1991, phải, hình bìa cuốn </em><strong>Miểng Đạn Trong Tim [<a id="_Hlk139599628" name="_Hlk139599628">Shrapnel in The Heart</a>] [2]</strong><em> của Laura Palmer”, Nxb Vintage Books 1987. </em>[tư liệu Ngô Thế Vinh]<strong></strong></p>
<p><strong> </strong><strong>Lời giới thiệu “Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình”: </strong><em>Với những nữ quân nhân Mỹ, họ là những anh hùng không được nhắc tới trong Chiến tranh Việt Nam. Con số hơn 250 ngàn người đã tự nguyện cống hiến. Nếu là y tá, họ chăm sóc thương binh và những người đang hấp hối. Họ là những người chị, những cô gái, những bà mẹ, những người vợ hay mới chỉ là người yêu. Không ai bắt họ phải nhập ngũ. Nhưng họ tự nguyện cống hiến, chấp nhận rủi ro của chiến tranh để chăm sóc những chiến binh. Chưa hết, cho dù thời gian đã qua đi, nhiều người trong số ấy nay chỉ mới bắt đầu hàn gắn những vết thương tâm can của họ. Các bài thơ đã được viết trong và sau chiến tranh, vẽ nên chân dung của những người phụ nữ bình thường khi phải đối đầu với thảm họa; với can trường và lo âu, của hy sinh và mất mát, của lòng trắc ẩn và tiếc nuối. Họ nói về sự sống còn, với hồi tưởng về những vết thương lòng / wounded hearts. Đây là những bài thơ với cảm xúc sâu xa mà bạn khó thể nào quên. Bạn sẽ luôn nhớ mãi những người phụ nữ ấy.</em><strong> </strong>[hết trích dẫn]<strong>[1]</strong></p>
<p>Từ trong Tuyển tập này, người viết [Ngô Thế Vinh] chọn ra <strong>ba bài thơ tiêu biểu, của ba phụ nữ: vùng miền tuy khác nhau nhưng họ có một mẫu số chung, là cùng nói về nỗi đau trong chiến tranh, thời điểm năm 1969, trên ba địa danh của Việt Nam:</strong></p>
<p><strong>(1) Dusty, </strong>theo phần tiểu sử là một cô y tá Mỹ chăm sóc một thương binh trẻ mới chết đêm qua nơi vùng Tam Biên (Tri-Border Area) trên Tây nguyên.</p>
<p><strong>(2) Xuân Quỳnh,</strong> một văn công trong đoàn múa, một nhà thơ và đứa con nhỏ sống dưới đường hầm trong vùng “tuyến đầu” Vĩnh Linh phía bắc tỉnh Quảng Trị. </p>
<p><strong>(3) Trần Mộng Tú,</strong> nhân viên hãng thông tấn AP, sống giữa Sài Gòn trong không khí chiến tranh, mới sau đám cưới, bỗng chốc trở thành góa phụ ở tuổi mới ngoài 20. </p>
<p><strong>1969 DUSTY CÔ Y TÁ MỸ</strong><br />
<strong>GIỮA CUỘC CHIẾN TRÊN CAO NGUYÊN</strong></p>
<p>Bài thơ có nhan đề: <strong>“Hello, David</strong>”, được ghi là của một cô y tá Mỹ, có tên Dusty phục vụ trong khu cấp cứu nơi một bệnh xá dã chiến vùng Tam Biên (Tri-Border Area) trên Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Bài thơ ấy – trong nhiều năm, được đánh giá là hay và cảm động: với nhân vật xưng “tôi”, là một cô y tá – viết cho một chiến binh trẻ tên David bị thương nặng được cô chăm sóc và mới chết đêm qua. </p>
<p><strong>HELLO, DAVID</strong><br />
<strong>CHÀO DAVID </strong></p>
<p><strong><em>Chào David – tên em là Dusty</em></strong><br />
Hello , David – My name is Dusty<br />
<strong><em>Em là y tá của anh đêm qua</em></strong><br />
I’m your night nurse…<br />
<strong><em>Em sẽ bên anh </em></strong><br />
I will stay with you<br />
<strong><em>Em đo sinh hiệu của anh </em></strong><br />
<strong><em> mỗi 15 phút</em></strong><br />
I will check your vitals<br />
every 15 minutes<br />
<strong><em>Em sẽ phải ghi xuống</em></strong><br />
I will document inevitability<br />
<strong><em>Em sẽ treo thêm bịch máu nữa</em></strong><br />
I will hang more blood<br />
<strong><em>Và cho anh thuốc giảm đau</em></strong><br />
and give you something for your pain<br />
<strong><em>Em sẽ bên anh </em></strong><br />
<strong><em>và vuốt mặt anh</em></strong><br />
I will stay with you <br />
and I will touch your face<br />
<strong><em>Vâng, chắc chắn rồi, </em></strong><br />
Yes, of course <br />
<strong><em>Em sẽ viết thư cho mẹ anh</em></strong><br />
<strong><em>và nói với bà rằng anh can đảm</em></strong><br />
I will write your mother<br />
and tell her you were brave<br />
<strong><em>Em sẽ viết thư cho mẹ anh</em></strong><br />
<strong><em>và nói anh thương mẹ biết dường nào</em></strong><br />
I will write your mother<br />
and tell her how much you love her<br />
<strong><em>Em sẽ viết thư cho mẹ anh</em></strong><br />
<strong><em>và sẽ nói với bà hãy ôm hôn </em></strong><br />
<strong><em>đứa em gái tuổi thơ ngỗ nghịch của anh </em></strong><br />
I will write your mother<br />
and tell her to give your bratty kid sister<br />
a big kiss and hug <br />
<strong><em>Điều gì em sẽ không nói với bà</em></strong><br />
What I will not tell her<br />
<strong><em>rằng anh đã hôn mê </em></strong><br />
is that you were wasted <br />
<strong><em>Em sẽ bên anh </em></strong><br />
<strong><em>và nắm lấy tay anh</em></strong><br />
I will stay with you <br />
and I will hold your hand<br />
<strong><em>Em sẽ bên anh </em></strong><br />
<strong><em>và thấy sự sống của anh </em></strong><br />
<strong><em>thoát khỏi những ngón tay em, </em></strong><br />
<strong><em>đi vào hồn em</em></strong> <br />
I will stay with you <br />
and watch your life <br />
flow through my fingers<br />
into my soul <br />
<strong><em>Em sẽ bên anh</em></strong><br />
<strong><em>cho tới khi anh còn bên em</em></strong><br />
I will stay with you <br />
until you stay with me <br />
<strong><em>Vĩnh biệt, David – tên em là Dusty</em></strong><strong> </strong><br />
Goodbye, David – my name is Dusty<br />
<strong><em>Em là người cuối cùng </em></strong><br />
<strong><em>anh thấy</em></strong><br />
I am the last person<br />
you will see <br />
<strong><em>Em là người cuối cùng </em></strong><br />
<strong><em>anh nắm tay</em></strong><br />
I am the last person<br />
you will touch <br />
<strong><em>Em là người cuối cùng yêu anh</em></strong><br />
I am the last person who will love you.<br />
<strong><em>Vĩnh biệt, David – em tên là Dusty,</em></strong><br />
So long, David – My name is Dusty,<br />
<strong><em>David, ai sẽ cho em thuốc giảm nỗi đau em?</em></strong><br />
David, who will give me something for my pain?</p>
<p><strong>Dusty, y tá Việt Nam, 1969</strong><br />
(Dusty, Vietnam nurse,1969)<br />
[bản dịch tiếng Việt của Ngô Thế Vinh]</p>
<p><strong>Dusty</strong>, sau này còn được biết với một bút danh khác là <strong>Dana Shuster</strong>, <strong>cô rất nổi tiếng, được vinh danh như một nhà thơ nữ viết về chiến tranh,</strong> bài thơ <strong>“Hello, David”</strong> không những hay và cảm động, đã được trích dẫn nơi bìa sách. Với hai bút hiệu khác nhau, chính cô là tác giả của 13 bài thơ hay trong tuyển tập <strong>Visions of War, Dreams of Peace</strong>, (với tên Dusty: 3 bài, Dana Shuster: 10 bài).<strong>[1]</strong></p>
<p>Ký giả Laura Palmer, từng sống và làm việc tại Sài Gòn, Paris, Washington, D.C., từ những năm đầu thập niên 1980s, Palmer để tâm theo dõi các cá nhân đã để lại những kỷ vật nơi <strong>Bức Tường Thương Tiếc</strong> (Vietnam Veterans Memorial ở Washington, D.C.) Cuốn sách của Palmer có tên là “<strong>Miểng đạn trong Tim”</strong> (Shrapnel in the Heart)<strong> [2] </strong>được Vintage Books xuất bản năm 1987, trong đó cô đã ghi lại những cuộc phỏng vấn. </p>
<p><strong><em>[Có một chi tiết riêng tư rất thú vị của TMT. Khi Laura Palmer sang Việt Nam làm cho AP đã từng là bạn thân của Trần Mộng Tú – sau khi Cung mất. Sang Mỹ, TMT và Laura vẫn liên lạc với nhau. Nhưng rồi bẵng đi một thời gian dài hơn 30 năm, họ mất liên lạc. Và mới đây hai người tìm lại được nhau. TMT đã ngạc nhiên vô cùng khi biết cô ký giả Laura Palmer nay trở thành Mục sư, và hiện đang sống ở Philadelphia]. </em></strong></p>
<p>Có một nhân vật trong sách mà ban đầu, Laura Palmer chỉ biết tên là <strong>Dusty, </strong>tác giả bài thơ<strong> “Hello, David”</strong>. Vào dịp ra mắt sách cuốn <strong>Shrapnel in the Heart</strong> 1987, chính Laura Palmer đã đọc bài thơ <strong>“Hello, David”</strong> của Dusty trong một chương trình buổi sáng trên đài phát thanh quốc gia [NPR / National Public Radio]; bài thơ gây xúc động cho nhiều cựu chiến binh và gia đình họ. <strong>B</strong><strong>ài thơ này cũng được chính Phó Tổng thống Mỹ Al Gore đọc sáu năm sau (1993) trong buổi lễ khánh thành </strong><strong>Vietnam</strong><strong> </strong><strong>Women's</strong><strong> Memorial</strong> [Tượng đài Tưởng niệm các Phụ nữ đã phục vụ trong chiến tranh Việt Nam]. </p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhzmzwU60tJ4CjV42nrNxah1ZsqzEm7Xiq5S9OKxcwrzjcdRM8eZS_04_os4gxuIysJnTgNd2N4k7pmoyOuHqwq40e9gI2-nCxRj3ssiIxaMUkOdHiSQN-_1PtyecUd6xZiL2BqMqK1TOiCiQzBrX1-sjZi4DFtfpmkIM2JJHZqe7lyuUqqSeYBAYaF9y4/s873/tran-mong-tu-3.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="655" data-original-width="873" height="240" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhzmzwU60tJ4CjV42nrNxah1ZsqzEm7Xiq5S9OKxcwrzjcdRM8eZS_04_os4gxuIysJnTgNd2N4k7pmoyOuHqwq40e9gI2-nCxRj3ssiIxaMUkOdHiSQN-_1PtyecUd6xZiL2BqMqK1TOiCiQzBrX1-sjZi4DFtfpmkIM2JJHZqe7lyuUqqSeYBAYaF9y4/s320/tran-mong-tu-3.jpg" width="320" /></a></div><p align="center"><strong><em>Hình 3: </em></strong><em>hình chụp <strong>một phần của tượng đài Vietnam Women’s Memorial tại Washington, D.C. do điêu khắc gia</strong></em><strong><em> Glenna Goodacre</em></strong><em> (1939 – 2020)</em><em>và</em><em> được Phó Tổng thống Al Gore cắt băng khánh thành nhân ngày Cựu Chiến Binh 11/11/1993. </em>[source: Montana Public Radio, © Public Domain]</p>
<p>Trong gần 20 năm, ký giả Laura Palmer chỉ được biết Dusty là tác giả bài thơ nổi tiếng “Hello, David”, và được nghe các câu chuyện về hai nhiệm kỳ Dusty phục vụ ở Việt Nam khoảng giữa 1966 – 1968, như trong Tết Mậu Thân 1968, Dusty kể rằng cô đã phải đứng trong phòng mổ suốt 72 giờ khiến hai bàn chân sưng phù tới mức không thể cởi giày ra được trong hai ngày! </p>
<p>Nhưng rồi, vào những năm sau này, cũng chính ký giả Laura Palmer khi tiếp xúc với các nhóm cựu chiến binh khác, họ cho biết là chưa từng được gặp hay làm việc với Dusty trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Laura Palmer bị áp lực phải trở lại tìm gặp Dusty và yêu cầu cô ta, nếu có thể cung cấp các chứng từ hay hình ảnh về thời gian cô phục vụ ở Việt Nam. Câu trả lời của Dusty là không thể.<strong> [4]</strong></p>
<p>Phát hiện của ký giả Laura Palmer về phần tiểu sử không thật của Dusty đã làm nhiều cựu chiến binh và gia đình họ ngỡ ngàng và cả thất vọng. <strong>Họ cảm thấy như bị phản bội khi biết rằng Dusty chưa hề là một nữ y tá trong quân đội Mỹ, và chưa hề có mặt ở Việt Nam chăm sóc thương binh trong chiến tranh.</strong> Laura Palmer đã báo ngay cho Vietnam Women's Memorial Foundation, và lúc đó Debbie Elliot đang phụ trách tổ chức này, đã ra một thông báo: </p>
<p>“<strong><em>Và bây giờ cần thêm một “ghi chú cuối trang” [footnote] trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Các bạn có thể đã đọc những bài thơ của một phụ nữ tên Dana Shuster nói về kinh nghiệm của cô như một y tá chiến trận / combat nurse ở Việt Nam. Cô ta còn được biết tới với một bút danh khác là Dusty, về một bài thơ nổi tiếng viết về một cô y tá chăm sóc một thương binh đang hấp hối. Nhưng gần đây người ta mới phát hiện ra rằng Dana Shuster chưa từng trong quân ngũ và cũng chưa bao giờ là một y tá”.</em></strong> <strong>[4]</strong></p>
<p> Một<strong> </strong>thân nhân của cựu chiến binh, Karen S. Zacharisa đã phát biểu: “<em>Một người nào đó nói rằng, mình có mặt ở đó cầm tay một người đang hấp hối tên là David là điều không thể tưởng tượng được. Zacharisa </em><em>nói rằng cô rất đau buồn nhưng bây giờ thì cứ chờ xem điều gì là động lực để Shuster làm như vậy, nhưng cô cũng xác nhận rằng ngay cả bây giờ đọc bài thơ ấy vẫn thực sự gây xúc động.</em> Ký giả Laura Palmer cho biết có nhiều cựu chiến binh cũng nghĩ như vậy”. <strong>[4]</strong></p>
<p><strong>Dẫu sao, Dana “Dusty” Shuster cũng đã tạo được mối quan tâm tới những y tá quân đội, và thi ca của Dusty đã giúp mọi người nhận biết được sự hy sinh và cống hiến của những phụ nữ ấy trong chiến tranh Việt </strong><strong>Nam.</strong> <strong>[1]</strong></p>
<p><strong>Ý kiến người viết [Ngô Thế Vinh]: </strong><em>Trong sáng tạo văn học, không nhất thiết bản thân tác giả phải là người thật việc thật giống như nhân vật trong tác phẩm. <strong>Với tài năng và sức mạnh của trí tưởng tượng sáng tạo, nhà thơ nhà văn vẫn có thể sáng tác ra những bài thơ, áng văn giá trị, “thật hơn cả sự thật” làm xúc động sâu xa lòng người</strong>. <strong>“Hello, David” </strong>vẫn là một bài thơ hay và cảm động, nhưng điều mà Dana “Dusty” Shuster đã làm thất vọng nhiều ngưởi – trong đó có các cựu chiến binh và gia đình của họ, không phải vì cô đạo văn đạo thơ của ai, nhưng chính là phần cô đã man khai về lý lịch của mình, khi họ biết cô ấy chưa hề là một y tá, và chưa hề có mặt ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh. <strong>Nếu Dana “Dusty” Shuster hiểu được rằng, vẫn có thể có “những sự thật trong hư cấu văn học”, thì cô đâu cần phải vẽ ra một lý lịch khác như vậy. Chính điều đó đã làm mất đi sự tin cậy của độc giả nơi cô!</strong></em><strong> </strong></p>
<p><strong>1969 XUÂN QUỲNH VÀ CON SƠ SINH </strong><br />
<strong>NƠI TUYẾN ĐẦU VĨNH LINH, QUẢNG TRỊ </strong><br />
<br />
Xuân Quỳnh, sinh năm 1942 tại Hà Đông [cùng nơi sinh với Trần Mộng Tú]. Xuân Quỳnh từ năm 13 tuổi đã được tuyển vào Đoàn ca múa nhạc Trung ương. Từ một cô văn công, Xuân Quỳnh đến với thi ca. Năm 20 tuổi (1962), Xuân Quỳnh được cử đi học lớp sáng tác cho các nhà văn trẻ. Từ 1964, giã từ Đoàn ca múa, bắt đầu làm biên tập viên cho tuần báo Văn Nghệ, Xuân Quỳnh nổi tiếng ngay với tập thơ đầu tay có tên<em> “Tơ tằm – Chồi biếc”. </em>Năm 1968, là tập thơ thứ hai <em>“Hoa dọc chiến hào”</em> phản ánh cảm xúc của nhà thơ trước cảnh bom đạn của đất nước. </p>
<p> Xuân Quỳnh có những tác phẩm thơ và truyện viết về trẻ thơ như: Lời ru trên mặt đất (1978), Bầu trời trong quả trứng (1982), và tập truyện Mùa xuân trên cánh đồng (1981), Bến tàu trong thành phố (1984). </p>
<p> Bài <strong><em>“Tuổi Thơ của con”</em></strong> được ghi là sáng tác năm 1969 trong thời gian Xuân Quỳnh đi thực tế ở vùng tuyến đầu Vĩnh Linh, phía bắc tỉnh Quảng Trị. (Bài thơ này sau đó được in trong cuốn Bầu trời trong quả trứng.<strong> </strong>Nxb Kim Đồng, 1982). Vĩnh Linh sát với vùng phi quân sự DMZ phía bắc vĩ tuyến 17. Vào thời điểm 1969, Vĩnh Linh từng được báo chí Mỹ mệnh danh là “<em>Vùng Trắng – White Zone</em>”, hay còn được gọi là <em>“vùng oanh kích tự do”</em>. </p>
<p><strong>TUỔI THƠ CỦA CON </strong> <br />
<em>MY SON’S CHILDHOOD </em> <br />
<strong>Tuổi thơ con có những gì</strong><br />
<em>What</em><em> do you have for your childhood</em><strong> </strong><br />
<strong>Có con cười với mắt tre trong hầm</strong><br />
<em>That you still smile in the bomb shelter</em><strong> </strong><br />
<strong>Có làn gió sớm vào thăm</strong><br />
<em>There is the morning wind which comes to visit you</em><br />
<strong>Có ông trăng rằm sơ tán cùng con</strong><br />
<em>There is the full moon which follows you</em><br />
<strong>Sông dài, biển rộng, ao tròn</strong><br />
<em>The long river, the immense sea, a round pond</em><br />
<strong>Khói bom đạn giặc, sao hôm cuối trời</strong><br />
<em>The enemies’ bomb smoke, the evening star</em><br />
<strong>Ba tháng lẫy, bẩy tháng ngồi</strong><br />
<em>At three months you turn your head, at seven you crawl</em><br />
<strong>Con chơi với đất con chơi với hầm</strong><br />
<em>You toy with the earth, you play with a bomb shelter</em><strong> </strong><br />
<strong>Mong ngày, mong tháng, mong năm</strong><br />
<em>I long for peace everyday, every month for a year</em><br />
<strong>Một năm con vịn vách hầm con đi</strong><br />
<em>For a year, you toddle around the shelter</em><br />
<strong>Trời xanh các ngả ngoài kia</strong><br />
<em>The sky is blue, but way over there</em><br />
<strong>Cỏ xanh quanh những hàng bia trên mồ</strong><br />
<em>The grass is green far away on the ancient tombs</em><br />
<strong>Quả tim như cái đồng hồ</strong><br />
<em>My heart is a pendulum</em><br />
<strong>Nằm trong lồng ngực giục giờ hành quân</strong><br />
<em>Pounding my chest, keeping time for the march</em><br />
<strong>Dế con cũng biết đào hầm</strong><br />
<em>The small cricket knows to dig a shelter </em><br />
<strong>Con cua chả ngủ, canh phòng đạn bom</strong><br />
<em>The crab doesn’t sleep: it, too, fears the bombs</em><br />
<strong>Trong trăng chú cuội tắt đèn</strong><br />
<em>In the moonlight, even the hare hides</em><br />
<strong>Để cho mắt giặc mây đen kéo về</strong><br />
<em>The black clouds hinder the enemy’s sight</em><br />
<strong>Cái hoa cái lá biết đi</strong><br />
<em>Flowers and trees join the march</em><br />
<strong>Theo người qua suối, qua khe, qua làng</strong><br />
<em>Concealing troops crossing streams, valleys, villages</em><br />
<strong>Chiến hào mặt đất dọc ngang</strong><br />
<em>My son, trenches crisscross everywhere</em><br />
<strong>Sẽ dài như những con đường con qua</strong><br />
<em>They’re as long as the roads you’ll someday take </em><br />
<strong>Hầm sâu giờ quý hơn nhà</strong><br />
<em>Our deep shelter is more precious than a house</em><br />
<strong>Súng là tình nghĩa đạn là lương tâm</strong><br />
<em>The gun is close by, the bullets ready</em><br />
<strong>Mẹ nuôi ngọn lửa trong hầm</strong><br />
<em>If I must shoot.</em><br />
<strong>Để khi khôn lớn con cầm lên tay</strong><br />
<em>When you grow up, you’ll hold life in your own hands</em><br />
<strong>Những điều mẹ nghĩ hôm nay</strong><br />
<em>Whatever I think at present</em><br />
<strong>Ghi cho con nhớ những ngày còn thơ</strong><br />
<em>I note down to remind you of your childhood days</em><br />
<strong>Ngày mai tròn vẹn ước mơ</strong><br />
<em>In the future, when our dreams come true, </em><br />
<strong>Yêu thương thêm chuyện ngày xưa nước mình</strong><br />
<em>You’ll love our history all the more. </em><br />
<strong><br />
Xuân Quỳnh</strong><strong> </strong><br />
<strong>Vĩnh Linh, 24-11-1969</strong><strong> </strong><br />
[bản dịch tiếng Anh của Phan Thanh Hao và Lady Borton] </p>
<p>Xuân Quỳnh được sinh ra và lớn lên trong nền giáo dục <em>“thép đã tôi thế đấy”</em> ở Miền Bắc, với lằn ranh “ta và địch” phải rất rạch ròi. Và trong <strong>nền “văn hóa chiến tranh”</strong> đó, với bài quốc ca “<em>thề phanh thây uống máu quân thù”</em>, đứa con thơ cũng đã được mẹ dạy <strong>“súng là tình nghĩa, đạn là lương tâm”, </strong>[bản dịch tiếng Anh với câu: “The gun is close by, the bullets ready”<em>, </em>đãkhông lột tả được ý nghĩa đích thực tính “chiến đấu máu lửa” của câu thơ này]. </p>
<p> Xuân Quỳnh không chết trong chiến tranh, nhưng cùng chồng là nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ và con trai đã chết trong một tai nạn giao thông nhiều nghi vấn ở Hải Dương năm 1988. Năm 2016, 28 năm sau Xuân Quỳnh được truy tặng giải thưởng văn học danh giá nhất của Hà Nội: giải thưởng Hồ Chí Minh. Lưu Quang Vũ cũng đã được truy tặng giải này từ năm 2000. </p>
<p><strong>1969 TRẦN MỘNG TÚ NHẬN TIN CHỒNG TỬ TRẬN </strong><br />
<strong>GIỮA MỘT SÀI GÒN TRONG KHÍ HẬU CHIẾN TRANH</strong></p>
<p>Trần Mộng Tú sinh năm 1943 tại Hà Đông, kém Xuân Quỳnh một tuổi. TMT đã có một thời con gái hoa mộng với tình yêu đầu đời như mọi thiếu nữ khác. Sau Lễ Phục Sinh một tuần, ngày 12/4/1969, là một đám cưới, Cung tử trận ngày 30/7/1969 – chỉ ba tháng sau – là đám tang chồng. TMT trở thành góa phụ ở tuổi mới ngoài 20. Bài thơ <strong>Quà Tặng Trong Chiến Tranh</strong> được TMT sáng tác trong nước vào thời điểm rất đau thương này, từ những xúc động trước cái chết của người yêu đầu đời và là chồng mới cưới của cô.</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgq837q6BAjzKcKV7aTt1pyJDSvjjkr-iN6Cc2JIKYXeeVGi4prGeo7iW5S7c96CnSccjxpY9Kp4ntJfWe48rC8uu0Jrxm86wSQwW0ynTE-Y7WRJVXpI1K_i1rOZKPF4gOcU74R_NpCUhv1KJlcupau5stwdcW_7OVgfW3ImYTI5uHeQoE4WFGy8IOJgHY/s470/tran-mong-tu-4.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="314" data-original-width="470" height="268" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgq837q6BAjzKcKV7aTt1pyJDSvjjkr-iN6Cc2JIKYXeeVGi4prGeo7iW5S7c96CnSccjxpY9Kp4ntJfWe48rC8uu0Jrxm86wSQwW0ynTE-Y7WRJVXpI1K_i1rOZKPF4gOcU74R_NpCUhv1KJlcupau5stwdcW_7OVgfW3ImYTI5uHeQoE4WFGy8IOJgHY/w400-h268/tran-mong-tu-4.jpg" width="400" /></a></div><p align="center"><strong><em>Hình 4:</em></strong><em> Trần Mộng Tú và Thái Hoàng Cung trong ngày đám cưới (ngày 12 tháng 4 năm 1969). Kiên Giang – Rạch Giá là địa danh định mệnh, nơi chuẩn úy - nhà giáo Thái Hoàng Cung, chồng mới cưới của Trần Mộng Tú tử trận ba tháng sau trong một cuộc hành quân (tháng 7 năm 1969), thời điểm TMT làm bài thơ này. </em>[tư liệu TMT] </p>
<p>Năm 1990, lần đầu tiên hai bài thơ viết về chiến tranh của Trần Mộng Tú <strong>[</strong><strong>The Gift in</strong><strong>Wartime</strong> / Quà Tặng trong Chiến Tranh và <strong>Dream of Peace</strong><strong> /</strong> Giấc Mơ Hòa Bình] được chọn đăng trong tuyển tập thơ: “Visions of War, Dreams of Peace” [1] (Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình). Đó là cũng là lần đầu tiên thơ Trần Mộng Tú xuất hiện trên văn đàn thế giới. <strong>Quà Tặng trong</strong><strong> </strong><strong>Chiến Tranh</strong> là bài thơ được chọn cho bài viết này. </p>
<p><strong>QUÀ TẶNG TRONG CHIẾN TRANH</strong><br />
<em>THE GIFT IN WARTIME </em></p>
<p><a id="_Hlk139602179" name="_Hlk139602179"><strong>Em tặng anh hoa hồng</strong></a><br />
<em>I offer you roses</em><br />
<strong>Chôn trong lòng huyệt mới</strong><br />
<em>Buried in your new grave </em><br />
<strong>Em tặng anh áo cưới</strong><br />
<em>I offer you my wedding gown</em><br />
<strong>Phủ trên nấm mồ xanh</strong><br />
<em>To cover your tomb still green with grass</em></p>
<p><strong>Anh tặng em bội tinh</strong><br />
<em>You give me medals</em><br />
<strong>Kèm với ngôi sao bạc</strong><br />
<em>Together with silver stars</em><br />
<strong>Chiếc hoa mai màu vàng</strong><br />
<em>And the yellow pips on your badge</em><br />
<strong>Chưa đeo còn sáng bóng</strong><br />
<em>Unused and still shining </em></p>
<p><strong>Em tặng anh tuổi ngọc</strong><br />
<em>I offer you my youth</em><br />
<strong>Của những ngày yêu nhau</strong><br />
<em>The days we still in love</em><br />
<strong>Đã chết ngay từ lúc</strong><br />
<em>My youth died away</em><br />
<strong>Em nhận được tin sầu</strong><br />
<em>When they told me the bad news </em></p>
<p><strong>Anh tặng em mùi máu</strong><br />
<em>You give me the smell of blood</em><br />
<strong>Trên áo trận sa trường</strong><br />
<em>From your war dress</em><br />
<strong>Máu anh và máu địch</strong><br />
<em>Your blood and your enemy’s</em><br />
<strong>Xin em cùng xót thương</strong><br />
<em>So that I may be moved </em></p>
<p><strong>Em tặng anh mây vương</strong><br />
<em>I offer you clouds</em><br />
<strong>Mắt em ngày tháng hạ</strong><br />
<em>That linger on my eyes on summer days</em><br />
<strong>Em tặng anh đông giá</strong><br />
<em>I offer you cold winters</em><br />
<strong>Giữa tuổi xuân cuộc đời</strong><br />
<em>Amid my springtime of life</em></p>
<p><strong>Anh tặng môi không cười</strong><br />
<em>You give me your lips with no smile </em><br />
<strong>Anh tặng tay không nắm</strong><br />
<em>You give me your ams without tenderness</em><br />
<strong>Anh tặng mắt không nhìn</strong><br />
<em>You give me your eyes with no sight</em><br />
<strong>Một hình hài bất động</strong><br />
<em>And your motionless body </em><strong><br />
</strong><strong> </strong><strong>Anh muôn vàn tạ lỗi</strong><br />
<em>Seriously, I apologize to you</em><br />
<strong> </strong><strong>Xin hẹn em kiếp sau</strong><br />
<strong> </strong><em>I promise to meet you in our next life</em><strong> </strong><br />
<strong> </strong><strong>Mảnh đạn này em giữ</strong><br />
<em> I will hold this shrapnel as a token</em><br />
<strong>Làm di vật tìm nhau.</strong><br />
<em>By which we will recognize each other. </em></p>
<p><strong>Sài Gòn </strong><strong>Tháng 7/ 1969</strong><br />
<strong>Trần Mộng Tú</strong><br />
[bản dịch tiếng Anh của <strong>Vann Phan</strong>] </p>
<p>Bài thơ tiếng Việt của TMT nguyên là một cuộc đối thoại giữa hai người, “thi sĩ và tử sĩ”, nhưng qua bản dịch cùa Vann Phan, có chỗ đã biến thành một độc thoại – với ngôi thứ nhất! </p>
<p>Điều khá ngạc nhiên là trong bài thơ <strong>“Quà Tặng Trong Chiến Tranh”,</strong> người ta không nghe thấy tiếng khóc gào thét của nỗi đau mất mát từ người góa phụ trẻ Trần Mộng Tú, khi người yêu đầu đời, người chồng mới cưới của cô bị tử trận. Khi ấy và cả những năm về sau này, người ta <strong>cũng không thể tìm thấy lửa hận thù “ta và địch” trong thơ TMT, mà chỉ có nỗi thổn thức xót thương chung cho tang tóc của cả đôi bên trong chiến tranh: </strong></p>
<p><strong><em>Anh tặng em mùi máu</em></strong><br />
<strong><em>Trên áo trận sa trường</em></strong><br />
<strong><em>Máu anh và máu địch</em></strong><br />
<strong><em>Xin em cùng xót thương</em></strong></p>
<p>Phạm Xuân Đài trong bài điểm sách Thơ tuyển 1969-2009 của TMT, trên Diễn Đàn Thế Kỷ (12/8/2010) đã viết: <em>“Bản lãnh của TMT là nuốt đắng cay vào trong để kết tinh thành những giọt nước mắt như ngọc rơi xuống trang thơ.” </em></p>
<p><strong>Không, TMT có khóc chứ, chỉ có điều cô không khóc ngay khi đi đón và chạm tay vào cỗ quan tài đã bốc mùi, nhưng là những năm về sau này, của những đêm dài không ngủ với những giọt nước mắt rỉ rả và rất âm thầm: </strong></p>
<p><em>“</em><em>Tôi trôi mãi rồi cũng phải giạt vào một chỗ. Bảy năm sau</em><em> [1976]</em><em> tôi lấy chồng, sanh con, tôi sống bình thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm của đời sống. Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước. <strong>Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện diện trong kiếp người của mình.</strong> Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như còn sống hay về như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm dao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con</em><em>”</em>. [5] </p>
<p><strong>Rồi cũng có một trận khóc rất thảm thiết – nhưng phải mãi tới 23 năm sau, khi TMT lần đầu tiên về Việt Nam, tới thăm N</strong><strong>hà thờ Tân Định</strong><strong>, nơi còn giữ hũ tro cốt của người chồng năm nào: </strong></p>
<p><em>“</em><em>Tôi đi len lỏi giữa những dãy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.</em><strong></strong><em>Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến</em><em>”</em><em>.</em><strong> [5]</strong> <strong></strong></p>
<p><strong>Với ba bài thơ trích dẫn, từ ba chiến tuyến, đã như một Dẫn Nhập khá dài cho một bài viết về nhà thơ Trần Mộng Tú. </strong></p>
<p><strong>*</strong></p>
<p><strong>TRẦN MỘNG TÚ</strong></p>
<p> Sinh quán Hà Đông, Bắc Việt. Lớn lên ở Hà Nội, rồi Hải Phòng, năm 1954 di cư vào Nam. Từ 1968 tới 1975 làm nhân viên hãng thông tấn The Associated Press Sài Gòn. Di tản sang Mỹ tháng Tư năm 1975. Ở hải ngoại, Trần Mộng Tú cộng tác với các tạp chí văn học và trang mạng ở Mỹ và các nước khác. Trần Mộng Tú hiện sống với gia đình ở một vùng ngoại ô yên tĩnh bên ngoài Seattle, tiểu bang Washington, Tây Bắc Hoa Kỳ. Bước qua tuổi “cổ lai hy”, TMT vẫn làm thơ, viết văn, và mỗi cuối tuần cùng chồng tới nhà thờ làm công tác thiện nguyện. <br />
</p>
<p><strong>TMT VỚI MỘT TIỂU SỬ THƠ</strong><br />
<strong>Người Đàn Bà Thi Sĩ Việt Nam</strong>:<br />
…<br />
<strong>Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam</strong><br />
<strong>Bỏ lại trên quê hương</strong><br />
Một mối tình<br />
Một mối tình được gắn huy chương<br />
Huy chương anh dũng bội tinh…<br />
…<br />
<strong>Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam</strong><br />
<strong>Đang sống trên đất Mỹ</strong><br />
Chồng tôi người bản xứ<br />
Chúng tôi có ba con chưa đến tuổi thành niên<br />
Đời sống êm đềm<br />
Trong một thành phố nhỏ…<br />
<strong>Tmt</strong></p>
<p><strong>TÁC PHẨM TMT ĐÃ XUẤT BẢN </strong></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi9hcssH8z93wh-HESBPRpLzaiEAXSzLMS3k6aX5DeoTOr-5CWrby4k-ZQb1WQ6SzsQK5-iGNP3kS61NLk0REsCSpXE7lHVKY18P4AZD2W2O2Yc1Io6ba2H17JMvIXd4wrhcLNtGRF97DDTPiVZqbeg4noP1xydEvvGaHasMZ3t_XBpUU8f8gERPdrfBk0/s1074/tran-mong-tu-5.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="161" data-original-width="1074" height="96" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi9hcssH8z93wh-HESBPRpLzaiEAXSzLMS3k6aX5DeoTOr-5CWrby4k-ZQb1WQ6SzsQK5-iGNP3kS61NLk0REsCSpXE7lHVKY18P4AZD2W2O2Yc1Io6ba2H17JMvIXd4wrhcLNtGRF97DDTPiVZqbeg4noP1xydEvvGaHasMZ3t_XBpUU8f8gERPdrfBk0/w640-h96/tran-mong-tu-5.jpg" width="640" /></a></div><p></p><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 5:</em></strong><em> hình bìa một số tác phẩm tiếng Việt của Trần Mộng Tú đã xuất bản, từ trái: Vườn Măng Cụt (2009), Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (1969-2009), Để Em Làm Gió (1996), Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (2006), Câu Chuyện của Lá Phong (1994), Ngọn Nến Muộn Màng (2005), Thơ Trần Mộng Tú (1990), Cô Rơm và Những Truyện Ngắn (1999), Lịch Trần Mộng Tú Xuân Ất Mùi 2015. </em>[nguồn: Blog’s TMT] </p>
<p><strong>Tiếng Việt:</strong></p>
<p> (1)Thơ Trần Mộng Tú (Tập Thơ-1990) Nxb Người Việt. (2) Câu Chuyện Của Lá Phong (Tập Truyện Ngắn-1994) Nxb Người Việt. (3) Để Em Làm Gió (Tập Thơ-1996) Nxb Thế Kỷ 21. (4) Cô Rơm và Những Truyện Ngắn (Tập Truyện Ngắn-1999) Nxb Văn Nghệ. (5) Ngọn Nến Muộn Màng (Tập Thơ-2005) Nxb Thư Hương. (6) Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (Tập Truyện- 2006) Nxb Văn Mới. (7) Vườn Măng Cụt (Tập Truyện Ngắn và Tản Văn - 2009 Nxb Văn Mới). (8) Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (Thơ 1969-2009- Tác Giả Xuất Bản). (9) Blog: tranmongtu.blogspot.com</p>
<p><strong>Tiếng Anh: </strong></p>
<p> (1) Visions of War, Dreams of Peace, Writings of Women in the Vietnam War. Warner Books 1991. (2) American Literature Textbook, Glencoe / McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000. (3) An Anthology of Vietnamese Poems: From the Eleventh through the Twentiedth Centuries. Yale University Press, New Haven and London, 2001. (4) The Defiant Muse (The Vietnamese Feminist Poems), The Feminist Press and The Women’s Publishing House Hanoi, Vietnam 2007. </p>
<p><strong>Các bài thơ được phổ nhạc: </strong></p><p>1/ Dòng Sông Đứng Lại (nhạc Phạm Anh Dũng). 2/ Tháng Mười Hoa Cúc (nhạc Phạm Anh Dũng). 3/ Quà Tặng Trong Chiến Tranh (nhạc Phạm Anh Dũng). 4/ Tháng Mười Hoa Cúc (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 5/ Quán Lạ (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 6/ Giọt Tình Sầu (nhạc Nam Lộc). 7/ Gọi Anh Mùa Xuân (nhạc Anh Bằng). 8/ Nhân Chứng (nhạc Vũ Tuấn Đức). 9/ Chia Tay (nhạc Nhật Ngân). 10/ Kiếp Sau (nhạc Nhật Ngân). 11/ Thanh Xuân (nhạc Nguyễn Tuấn). 12/ Mùa Thu Paris (nhạc Nguyễn Minh Châu). 13/ Dòng Sông Đứng Lại Chờ (nhạc Nguyễn Thanh Cảnh). 14/ Ngọn Nến Muộn Màng (nhạc Nguyễn Thanh Cảnh). 15/ Tháng Tư Nhuộm Tóc (nhạc Nguyễn Thanh Cảnh). 16/ Quà Tặng Trong Chiến Tranh (nhạc Nguyễn Ngọc Tiến).</p>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgSco-VgfNZA-pO8vYbgjtThZlRE5EoQZiyDa8lGq8ZGYHQaWbMgBTWAKiFMk9YHyRw8JKwdkyB0EIc5hMK14jAovP1SI_OB5wjjO6I3YlpRy29r6UIfWwAr_1CpsfWy28MZkPrxWFfydD5U5In9wX1vOExzgRppHYH7h9N4l5RZbmNzKsFahchg_1ln2o/s948/tran-mong-tu-6.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="343" data-original-width="948" height="232" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgSco-VgfNZA-pO8vYbgjtThZlRE5EoQZiyDa8lGq8ZGYHQaWbMgBTWAKiFMk9YHyRw8JKwdkyB0EIc5hMK14jAovP1SI_OB5wjjO6I3YlpRy29r6UIfWwAr_1CpsfWy28MZkPrxWFfydD5U5In9wX1vOExzgRppHYH7h9N4l5RZbmNzKsFahchg_1ln2o/w640-h232/tran-mong-tu-6.jpg" width="640" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 6:</em></strong><em> trái, hình bìa cuốn <strong>Mưa Sài Gòn, Mưa Seattle</strong>, Tạp Văn của Trần Mộng Tú, Nxb Văn Mới 2006; phải, hình bìa <strong>Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (1969-2009)</strong> của Trần Mộng Tú, Tác giả xuất bản 2009. Đến nay, đã hơn nửa thế kỷ – hay chính xác hơn 54 năm sau (1969-2023), bắt đầu bước vào tuổi 80, Trần Mộng Tú vẫn làm thơ, vẫn với sức sáng tác phong phú và sung mãn. Có thể nói, Trần Mộng Tú như một hiện tượng rất hiếm hoi: bà là một nhà thơ không có tuổi tác. </em></p>
<center>
<iframe allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture; web-share" allowfullscreen="" frameborder="0" height="350" src="https://www.youtube.com/embed/fC8ZZAacRJA" title="Quà Tặng Trong Chiến Tranh (Trần Mộng Tú-Phạm Anh Dũng) Mai Linh Anh Quang, Hoàng Khai Nhan" width="650"></iframe>
</center>
<p>Trần Mộng Tú làm thơ, viết truyện ngắn, tùy bút, làm báo. Sự nghiệp văn học của Trần Mộng Tú chủ yếu là thơ. Thơ của Trần Mộng Tú gồm nhiều thể loại: thơ tình, thơ thời sự, với tình yêu thương sâu sắc trước các thảm kịch như chiến tranh Trung Đông, khủng bố 911 ở Mỹ <em>(Trả lại tôi)</em>, 39 thùng nhân chết trên con đường kiếm sống <em>(Tôi không thở được</em>), thảm họa môi sinh Formosa với hàng loạt cá chết (<em>Gửi người em Vũng Áng</em>)… </p>
<p>Văn chương của Trần Mộng Tú thanh thoát. Ở đó không hề có bóng dáng của thù hận; và với thể loại nào cũng thấm đẫm những tình cảm đôn hậu, yêu thương, rất Trần Mộng Tú.
</p>
<p><strong>TÌM LẠI THỜI GIAN ĐÃ MẤT </strong><br />
<strong>1968 TMT VÀ CƠ DUYÊN VỚI AP SAIGON</strong></p>
<p>Sau khi thi đậu tú tài 2, Trần Mộng Tú vẫn đi học thêm Anh văn ở mấy lớp dạy tư. Khi Ba Tú về hưu, Tú muốn đi làm thêm phụ giúp gia đình. TMT có một thời gian ngắn đi làm trong PX Ambassador. PX này dành riêng cho sĩ quan cao cấp và nhân viên ở Tòa Đại Sứ. Tuy Ba là công chức, làm ở sở Địa Chánh, tiếng là ông Tham, ông Phán nhưng lương hưu cũng chẳng có nhiều. </p>
<p>TMT có khiếu về ngôn ngữ, nói và nghe tiếng Anh tốt nhưng không biết nhiều về báo chí. Khi đó, nhân có một người anh họ tên Đinh văn Ngọc, vừa đang học Luật vừa làm cho AP, bị động viên năm 1968. Anh ấy nói: <em>“</em><em>Em vào đây học tiếng</em><em> Anh</em><em> nhanh hơn ở </em><em>t</em><em>rường</em><em>, c</em><em>ứ thử đi.</em>” Rồi anh ấy mang cô em vào giới thiệu. Lúc đó Tú cũng liều, đâu biết là cả AP bao nhiêu năm nay toàn đàn ông không có phụ nữ nào cả. Tú nghĩ chắc lúc đó ông Bureau Chef muốn có một cô vào làm như cần một bông hoa trang trí cho văn phòng”. Làm ở AP, Tú đã học được rất nhiều. Lương lại cao hơn những việc khác. Việc làm có phẩm chất, hơn nữa sau giờ trưa, ông Bureau Chef AP còn cho Tú 2 giờ đi học thêm tiếng Anh. </p>
<p>Văn Phòng AP trong Passage Eden trên lầu 4, phòng 420-422. Nơi còn có các văn phòng của đài truyền hình NBC, của tuần báo nổi tiếng US World and News Report. TMT có rất nhiều kỷ niệm với Passage Eden, với tiệm kem Givral – nơi góc đường Tự Do và Lê Lợi. Nơi mỗi lần Thái Hoàng Cung, người yêu đến đón, buổi trưa về nhà anh ăn cơm, thỉnh thoảng hai người vào ăn kem hay mua bánh mang về. Tuy chưa cưới nhau, nhưng TMT đã được mẹ Cung – một nhà giáo nổi tiếng nghiêm khắc, khi ấy bà đang làm Giám thị Đại học xá nữ Thanh Quan trên đường Trần Quý Cáp. Bà rất thương cô con dâu tương lai và đã coi TMT như một đứa con trong gia đình.</p>
<p><strong>1968 TÌNH YÊU ĐẦU ĐỜI ĐẸP NHƯ MƠ </strong></p>
<p> Do hai gia đình có hai bà mẹ thân nhau, TMT và Thái Hoàng Cung có dịp quen nhau từ hồi trung học. Cung là con thứ hai trong một gia đình ba anh em trai. Ba Cung nguyên là nhà giáo dạy tiếng Pháp, mở một trường học ở Nam Định, ông bị Việt Minh bắt và thủ tiêu trong thời gian cuộc kháng chiến chống Pháp. Lúc đó mẹ Cung cũng là nhà giáo, còn rất trẻ đã sớm góa bụa, bà đem ba đứa con về Hà Nội, đứa lớn nhất lúc đó chỉ mới 10 tuổi, bà vừa đi dạy học vừa bươn chải nuôi nấng ba con. Vì không biết ngày chồng chết, bà lấy ngày ông bị Việt Minh bắt đi làm ngày giỗ. Rồi tới năm 1954, sau Hiệp định Genève, bà lại dẫn ba con di cư vào Nam. </p>
<p>Cung học xong năm cuối trường Jean-Jacques Rousseau, sau tú tài 2, Cung chọn thi vào trường Đại học Sư phạm, tốt nghiệp ban Pháp văn, được bổ nhiệm đi làm giáo sư dạy tiếng Pháp trong một trường trung học nhỏ ở miền Tây, nhưng chưa được một năm thì có lệnh tổng động viên sau trận Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. </p>
<p>Sau khi học xong khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức, trước khi ra đơn vị, Cung xin gia đình cha mẹ TMT cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, TMT có chồng từ tháng 6-1968.</p>
<p><strong>NỖI KHẮC KHOẢI CỦA MỘT CHINH PHỤ</strong></p>
<p><strong> 1968</strong><strong> </strong><strong>BUỔI TRƯA SÀI GÒN</strong></p>
<p> Mùa mưa đang về giữa Sài Gòn<br />
con đường Tự Do vỡ òa bong bóng<br />
em đi dưới trời mưa</p>
<p> Em nhớ anh<br />
em khóc<br />
<br />
Những chiếc taxi nằm im<br />
Sài Gòn trong mưa<br />
Sài Gòn buổi trưa <br />
Sài Gòn như nỗi chết</p>
<p> Sao anh còn trẻ thế <br />
Sao em còn trẻ thế<br />
Sao tình yêu hai ta còn trẻ thế<br />
lại lăn vào<br />
một cuộc chiến già nua</p>
<p> Bây giờ một người lính mới<br />
cầm cây súng cũ xì<br />
ở tận chi khu Trà Bồng<br />
một địa danh nghe mà<br />
ngơ ngác</p>
<p> Bây giờ một người con gái<br />
cầm trái tim mình bằng cả hai tay<br />
đi dưới cơn mưa <br />
đầy bong bóng nước <br />
<br />
<br />
Ôi Sài Gòn buổi trưa<br />
Em nhớ anh<br />
Em nhớ anh<br />
em khóc.<br />
<br />
<strong>Trần Mộng Tú. 1968</strong><strong> </strong></p>
<p><br /><strong>1969</strong><strong> </strong><strong>BẢN TIN TRONG NGÀY</strong></p>
<p>Em đi trong thành phố<br />
mùa đông đến sau lưng em<br />
gió thổi trên nóc nhà thờ Đức Bà<br />
em se mình trong chiếc xích lô</p>
<p>Bản tin em lấy về sáng nay ở Nha Báo Chí<br />
số chết của ta và địch<br />
chia đôi rất công bình</p>
<p>Ở tòa báo em làm<br />
những người phóng viên<br />
đang thu xếp ngày mai ra Đà Nẵng<br />
không có ai đi Kiên Giang*<br />
làm sao em gửi được cho anh<br />
một nụ hôn vào chiếc bao thư<br />
làm sao em gửi được cho anh<br />
những giọt nước mắt sáng nay của em<br />
vào trong bao thuốc lá</p>
<p>Em se mình trong tòa báo<br />
hoang mang<br />
cúi xuống một bản tin mới ra</p>
<p>Trưa nay<br />
Ta chết nhiều hơn địch</p>
<p>Em gọi trong lồng ngực đáng thương của mình</p>
<p>Ôi anh!<br />
Ôi anh!<br />
Ôi anh!</p>
<p>Buổi chiều<br />
em trở về<br />
chiếc xích lô vẫn còn đầy gió.</p>
<p><strong>Trần Mộng Tú</strong><strong> - </strong><strong>Tháng 3-1969</strong></p>
<p> <br />
<strong>1969 TANG TÓC BA THÁNG SAU NGÀY CƯỚI </strong></p>
<p><strong><em>“</em></strong><strong><em>Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969</em></strong><em>, khi tôi</em><em> – TMT –</em><em> đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, sắp xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl</em><em>và anh Huân là hai người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc đó làm thư ký cho hãng thông </em><em>t</em><em>ấn The Associated Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: </em><em>t</em><em>ừ phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v</em><em>..</em><em>. Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.</em><strong> </strong><br />
<em><br />
</em><em>Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì. Cuối cùng Carl nói:</em><strong><em>“Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận.”</em></strong><em>Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp:</em><em>“Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của </em><em>Đ</em><em>ại học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.”</em><em>Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.</em><br />
<em><br />
</em><em>Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7 năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được một năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi</em><em>khu Trà Bồng)</em><em>,</em><em> chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được.</em><em>Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.</em></p>
<p><em>Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ. Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.</em></p><p><em>“Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sài</em><em> G</em><em>òn.”</em></p><p><em>Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn:</em><em>“Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.”</em></p>
<p><em>Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó. Tôi tự thấy mình bé nhỏ,</em><em>mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhàu nát, tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình. Cái sân bay trông sao mông mênh thế mà cái áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹn thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.</em></p>
<p><em>Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không còn nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.</em></p>
<p><em>“</em><em>Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con.”</em></p>
<p><em> Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giày saut ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thòi nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có giẫm phải ai không. Tôi cố gắng không giẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo</em><em>:</em><em> “Đúng là Cung rồi.”</em></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhaq73csUhZekz1-dhwQ0AbtL8xwtGO_XqmBUNlL5dDxpmnDWiWDOE6RoxQ17SAnnCsnhoaGFqIEwyu_01MfB6q3SmzRJ0JayQWqydGRZWGa1QWAKnKW-_qHZ6ypZwL82rV1yqg6HknBuFT-orycvsGhql3pQ3ubHzYkr8sgNBkNYQEl_MhGgXtyK738Lc/s637/tran-mong-tu-7.png" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="439" data-original-width="637" height="276" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhaq73csUhZekz1-dhwQ0AbtL8xwtGO_XqmBUNlL5dDxpmnDWiWDOE6RoxQ17SAnnCsnhoaGFqIEwyu_01MfB6q3SmzRJ0JayQWqydGRZWGa1QWAKnKW-_qHZ6ypZwL82rV1yqg6HknBuFT-orycvsGhql3pQ3ubHzYkr8sgNBkNYQEl_MhGgXtyK738Lc/w400-h276/tran-mong-tu-7.png" width="400" /></a></div><em><br /><div style="text-align: center;"><strong><em>Hình 7:</em></strong><em> Một góc của phi trường Bình Thủy, Cần Thơ 1969, nơi chiếc quan tài của Thiếu úy Thái Hoàng Cung được chiếc máy bay vận tải của Quân đội Mỹ thả xuống.</em></div>
</em><p></p><p><em>Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.</em><em>“Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sài</em><em>Gòn.”</em><strong></strong><strong>[5]</strong></p>
<p><em>Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một dòng nước đục chảy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.</em><em><br />
<br />
</em><em>Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây nến chảy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang khác với nh</em><em>ữ</em><em>ng người trong trại lính này. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.</em><br />
<em><br />
Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau</em><em>:</em></p><p><em>“Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”</em><br />
<em><br />
Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có ba người trong gia đình này ít khóc nhất. Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sài</em><em>Gòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con. Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà</em><em>,</em><em> cô còn may mắn chán.</em></p>
<p><em> Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sài</em><em> G</em><em>òn. Trong khi đó thì các con của bà: </em><em>c</em><em>on sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.</em></p>
<p><em> Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhàu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương. Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.</em></p>
<p><em> Sau này tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường?</em><em>Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.</em></p>
<p><em> Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.</em></p>
<p><em> Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. H</em><em>ọ</em><em> nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh này những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.</em><em>”</em><strong> [5] [Bình Thủy, 1969]</strong></p>
<p><strong>1970 TMT TRỞ LẠI SỐNG VỚI BÌNH THƯỜNG MỚI</strong></p>
<p> Cho dù có chồng chất đau đớn và tang thương đến thế nào, cuộc <strong><em>“chiến tranh già nua”</em></strong> ấy – chữ của TMT, vẫn cứ lạnh lùng tiếp diễn, với vô số đạn bom vô tri của cả đôi bên. Mỗi ngày Sài Gòn, và cả trên khắp nẻo đường đất nước, vẫn có thêm bao nhiêu vành khăn tang mới và rồi họ vẫn cứ phải sống. <strong> </strong></p>
<p> Sau khi Cung mất, TMT trở lại đi làm cho AP, vẫn được cả hãng quý mến, họ mừng đám cưới rồi sau đó lo đám tang cho chồng TMT, chỉ cách nhau có 3 tháng. Vì mẹ TMT và mẹ Cung thân nhau nên liên hệ hai gia đình không có gì thay đổi từ ngày Cung mất. Trong suốt 7 năm còn ở Việt Nam, mỗi trưa đi làm ra TMT đều về nhà ăn cơm với Mẹ Cung, nếu không phải ngày đi học thì ra nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thăm mộ chồng, sau đó mới trở lại Sở làm. </p>
<p> Trở lại với Văn phòng AP ở Sài Gòn. Cứ 2 năm office thay một ông Bureau Chef mới. Ông nào cũng quý mến và bảo vệ người con gái duy nhất kém may mắn của AP. Tuy không phải là nhà báo, TMT đôi lần cũng được đi du lịch nước ngoài, sang Mỹ, rồi sang Nhật với danh nghĩa ký giả AP ở thời điểm 1971- 1972, hồi đó ra nước ngoài rất khó. TMT đi rồi lại về, không hề nghĩ chuyện ở lại Mỹ. Ba Tú thương con gái, cứ dặn đi dặn lại: “<em>Con đi chơi rồi về chứ đừng ở lại một mình xứ người.</em><em>” </em></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhCyYvsC-cB75Roz6OocftHZbdsT5NWEdlexv2U6zNP60FsSvrhtooATIl9hUnpLk5KKuGpcCjKQN3bUFX5e3FfbicD82OUCly6mkfzM-M030xuOxWj1qtQJj-z2309867K45K1DkcSV-ZTlRyJjejs7edA3ATDdY91J7Z5R56WDidHOq8EAe-Z3tBER6I/s921/tran-mong-tu-8.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="355" data-original-width="921" height="246" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhCyYvsC-cB75Roz6OocftHZbdsT5NWEdlexv2U6zNP60FsSvrhtooATIl9hUnpLk5KKuGpcCjKQN3bUFX5e3FfbicD82OUCly6mkfzM-M030xuOxWj1qtQJj-z2309867K45K1DkcSV-ZTlRyJjejs7edA3ATDdY91J7Z5R56WDidHOq8EAe-Z3tBER6I/w640-h246/tran-mong-tu-8.jpg" width="640" /></a></div><p align="center"><strong><em>Hình 8:</em></strong><em> Trần Mộng Tú (2a) Tokyo 1971, (2b) New York 1972</em>. [tư liệu TMT]</p>
<p>Hàng ngày tiếp xúc với các ký giả, phóng viên nhiếp ảnh từ các nơi tới, từ Mỹ sang. Họ đến rồi đi, Tú chưa hề nghĩ mình sẽ lập gia đình với một người nước ngoài. Ngay cả sau khi người chồng mới cưới của TMT tử trận, TMT cũng dửng dưng với những ký giả muốn làm thân. </p>
<p>Tuy không phải ký giả nhưng đôi khi TMT cũng phải chạy tới mấy nơi có họp báo để lấy tài liệu, ghi <em>notes</em> nếu các ký giả ra chiến trường hết. Có lúc Office vắng tanh cả tuần liền, chỉ còn Tú và ông Chánh Văn Phòng, TMT phải lo mọi việc từ mua hình, chạy đi lấy bản tin đến họp báo bỏ túi. Mấy <em>photo stringer</em> [chụp hình nghiệp dư] Việt Nam thì thích gặp Tú lúc tới bán hình vì bao giờ Tú cũng trả thêm cho họ, thay vì 20 US$ cho một tấm hình, Tú trả cho họ 25 US$ – trong đó có nhà báo Nguyễn Tú A, mà Tú còn nhớ. </p>
<p>Từ một cô học trò mới xong Trung Học, TMT rơi ngay vào môi trường báo chí của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. TMT học được nhiều giữa chiến tranh và đời sống. TMT nghĩ cũng nhờ đó mà Tú trưởng thành trong cách viết về chiến tranh sau này. Thỉnh thoảng TMT cũng sang văn phòng Tuần báo Times bên khách sạn Continental để đưa hay lấy một tài liệu gì đó, gặp nhà báo Phạm Xuân Ẩn. Mẫu người khắc khổ, ít nói nhưng Tú nhớ mỗi lần gặp, Phạm Xuân Ẩn tuy không cười nói vồn vã, nhưng thường nhìn Tú bằng ánh mắt hiền từ, không thấy giống điệp viên 007 chút nào. </p>
<p>TMT học việc rất nhanh. Chỉ khó khăn lúc đầu, thỉnh thoảng khi có biểu tình dưới phố, ngay trước tòa nhà Quốc Hội, mấy ký giả Mỹ lôi Tú xuống nhờ dịch mấy biểu ngữ, Tú lúng túng vô cùng vì không biết danh từ chuyên môn tiếng Anh về <em>Đả Đảo, Hoan Hô.</em> Dần dần làm lâu, nghề dạy nghề, cũng thông thạo. Bây giờ thì quên nhiều lắm rồi. Thỉnh thoảng, tòa soạn AP trống trơn, các ký giả ra chiến trường hết, nếu có "Họp Báo Chớp Nhoáng" bên MACV hay bên Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Chánh Văn Phòng cử TMT đi, Tú cũng biết ghi lại để mang về office cho ông.</p>
<p><strong>BẦY CHIM BỎ XỨ * [tên một tổ khúc của nhạc sĩ Phạm Duy]</strong><br />
<strong>NHỮNG NGÀY ĐẦU DI TẢN – TMT VÀ FRANK</strong></p>
<p><strong>Hơn ai hết, giới truyền thông báo chí Mỹ đã biết rất rõ số phận những ngày tháng Tư cuối cùng của Sài Gòn; và c</strong><strong>huyến </strong><strong>bay </strong><strong>đầu tiên</strong><strong> di tản nhân viên của hãng Thông tấn AP là vào ngày 21/4/1975.</strong><br />
<br />
Nhóm Việt Nam được di tản sớm gồm có: Trần Mộng Tú và ba mẹ, cùng với Nick Út, và gia đình Đặng Văn Phước. Khi tới Mỹ, họ được đưa ngay vào khu tạm trú ở Camp Pendleton – là một trại lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ gần San Diego. Do TMT có một người bạn tên John Parkson, trước làm cho NBC Sài Gòn, có văn phòng ngay cạnh AP, anh ấy mang theo người vợ Nhật vào trại thăm, thấy TMT có cha mẹ già nên muốn bảo lãnh cho ra ngay. TMT và ba mẹ ra trại ngày thứ Sáu 13/6/75, và ở nhà người bạn đó, nơi thành phố Encino, California. Mới được hai tuần lễ, thì có một ngân hàng Nhật tên Sumitomo Mitsui trên đường Figueroa, Los Angeles có <em>opening</em> cần mướn một thâu ngân viên / bank teller, TMT nộp đơn tới phỏng vấn, cùng với hai cô người Mỹ khác, may mắn sao họ nhận TMT, có lẽ thấy Tú là người Á Đông, lại thông thạo Anh Ngữ. </p>
<p> Cũng người bạn NBC ấy đã thuê cho gia đình TMT một <em>apartment</em> gần World Trade Center trên đường Figueroa nơi có ngân hàng Mitsui. TMT có thể từ nhà đi bộ tới chỗ làm việc vì lúc đó làm gì có xe, và cũng chưa đi học lái xe. Có việc thì mừng lắm, đi làm ngay nhưng TMT không biết là cô có thể hưởng trợ cấp và đi học miễn phí. Nếu biết, Tú chắc sẽ đi học một nghề gì đó. </p>
<p> Trừ Nick Út vì có giải Pulitzer (1973) với tấm ảnh <em>“Em bé Napalm”</em> được giữ lại làm phóng viên ảnh cho AP. Đặng Văn Phước, phóng viên nhiếp ảnh khác cũng được giữ lại nhưng anh Phước bị gửi sang Hồng Kông, do vất vả quá, nên xin thôi AP và trở lại Mỹ.</p>
<p> Các nhân viên khác thì AP cho nghỉ việc, mỗi người được AP cấp cho một số tiền là 3.000 USD, rồi tự túc sau đó. <em>[Theo chuyên gia ngân hàng Võ Tá Hân, thì số tiền đó khá lớn, nếu tính theo thời giá bây giờ là khoảng hơn 16.000 USD].</em> </p>
<p><strong>TMT vẫn tin rằng m</strong><strong>ọi việc</strong><strong> </strong><strong>do Trời sắp đặt cả.</strong> Khi ấy, trong building có một chàng trai Mỹ tên Frank – có cha gốc người Anh và mẹ gốc Ái Nhĩ Lan, cũng mới dọn vào trước đó một tháng. Anh ấy vừa từ Orange County lên, và mới vào làm công chức. Hai người thỉnh thoảng gặp nhau ở khu Mail Box trong chung cư. TMT hỏi han đường xá, Frank tận tình chỉ dẫn, thấy Tú có cha mẹ già và nhà chưa có xe nên anh nhận đưa cha mẹ Tú đi nhà thờ cuối tuần, anh cũng là người theo đạo Thiên Chúa. </p>
<p><strong>Rồi</strong><strong> hai người, TMT và Frank nên duyên vợ chồng</strong>. Tháng 9/1976 – 7 năm sau ngày Cung mất, Frank và Tú chính thức lập gia đình, sau này TMT mới biết Frank nhỏ hơn 5 tuổi.</p><p>Lúc lập gia đình TMT gần như hai bàn tay trắng nhưng có được việc làm. Hai vợ chồng thuê apartment để ở. Khi sanh con đầu lòng, mẹ chồng cho tiền down mua căn nhà đầu tiên, hàng tháng chỉ trả ít, không phải cố gắng. Frank là người sống rất giản dị và chăm làm, anh nói Tú ở nhà trông con, một mình anh đi làm là đủ. TMT vẫn nhớ câu anh nói: <em>Nếu</em><em> em không muốn con em đưa em vào nhà dưỡng lão thì cũng không gửi con vào nhà trẻ</em><strong><em>.</em></strong><strong> </strong>TMT ở nhà đến khi cháu út 11 tuổi Tú mới đi làm trở lại. Công việc mới sau này là thông dịch viên hữu thệ, khó thi vào nhưng TMT đã vượt qua, và làm công việc ấy trong lãnh vực y tế cho đến lúc nghỉ hưu. </p>
<p>Frank tốt nghiệp Đại học Công Giáo Loyola Chicago, có cử nhân toán, ban đầu đi làm công chức trong lãnh vực kế toán, nhưng than công việc chán quá! TMT bàn với chồng: anh nên đi học về computer, Tú nghĩ sẽ thích hợp hơn với anh. Lúc đó là thập niên 1980, môn học này tương đối rất mới. Frank nghe lời vợ, xin thôi đi làm. TMT bán nhà, trả hết tiền gốc, còn được bao nhiêu, hai vợ chồng dùng nửa số tiền đó down mua một căn nhà khác nhỏ hơn, số tiền còn lại cho Frank đi học. Frank học 6 tháng về Computer Programmer xong, có việc ngay, lương khá. Tú nói chưa được, anh phải vừa đi làm, vừa đi học thêm sao cho tương đương với trình độ 4 năm. Frank nghe, đi làm ra, đến UCLA học thêm, hết khóa này đến khóa khác. </p>
<p><strong>Vẫn</strong><strong> với bản năng đảm đang của người phụ nữ Việt Nam, chỉ biết lo cho chồng cho con.</strong> Tối nào sau khi dỗ cho con ngủ, TMT cũng đợi chồng tới 11 giờ khuya, tới khi chồng về cùng ăn bữa tối, mới đi ngủ. Frank sẵn giỏi toán, vào ngành điện toán như cá gặp nước. Đi làm ở đâu cũng thành công, và là nhân viên chính của hãng. </p>
<p>Đến bây giờ Frank vẫn nói: nhờ vợ mới có công việc thích hợp. Cũng để thấy, phụ nữ Việt Nam biết lo cho chồng con và xoay sở trên đất người như thế nào<em>.</em></p>
<p>Khi TMT bị đẩy ra khỏi nước, cả gia đình Cung cũng ra đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những người còn sống, cũng bị chiếm đoạt tài sản, cũng bị đuổi nhà. Ngôi mộ Cung trên miếng đất đã được Mẹ mua cho trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi cũng bị dời đi. Người anh họ còn ở lại, tìm cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.</p>
<p><strong>SEATTLE ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU 1988</strong></p>
<p> Sau 13 năm sống ở California. Năm 1988, Trần Mộng Tú ở tuổi 45, đã cùng gia đình dọn về sống ở Seattle, tiểu bang Washington. Nơi có không khí trong lành và cuộc sống bình yên hơn Los Angeles. Cùng với năm tháng êm đềm trôi qua, ba đứa con đều đều tới tuổi trưởng thành: hai trai, một gái và các cháu nội ngoại và rồi ra ở riêng. </p>
<p> Frank không chỉ là người chồng mà còn là một người bạn. Frank quý mọi người và không kỳ thị. Anh tôn trọng những người bạn Việt Nam của TMT. Tới mức có một người bạn văn của TMT phải khen: <em>Frank hiền như một ông thánh.</em> TMT thì không nghĩ như vậy, vì ông thánh ấy cũng có lúc “biển động, núi gầm” nhưng do cả hai quan tâm tới nhau, tương kính như tân, và họ biết nhường nhịn, biết trân quý những ngày êm ả. </p>
<p>Về sở thích văn chương của TMT, Frank tuy không chia sẻ được trong việc sáng tác, nhưng khuyến khích và hỗ trợ vợ tối đa. Căn nhà rộng, hai vợ chồng mỗi người một phòng. Frank có master bedroom làm office luôn. TMT có một phòng và một office. Vẫn dư một phòng nên TMT làm thành phòng đọc sách kiểu Nhật. Chiếu trúc, gối trúc mang từ VN về. <br />
Ở cửa phòng viết của TMT, Frank treo một dòng chữ viết tay <strong>‘Quiet</strong><strong>! </strong><strong>Poet at work’</strong> khi Tú ở trong đó, để các con không làm phiền mẹ.”</p>
<p><strong>TMT</strong><strong> tin vào số phận, </strong><strong>nghĩ</strong><strong> rằng</strong><strong> Thượng Đế đã viết cho mỗi người một kịch bản, mình cứ thế mà theo mà đóng vai trò đã định sẵn, thế thôi.</strong><strong> <em>“</em></strong><strong><em>Tôi cám ơn Thượng Đế đã tạo ra tôi là một người biết yêu chữ nghĩa, nhất là yêu Thơ</em></strong><strong><em>”</em></strong><strong><em>.</em></strong><strong> </strong></p><p><strong></strong></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhvLzisnTz04tkynp38BmhqojbR-j3a3FyYxtg4jPY2hOUnTxh3VbZUZ7Y6OeWNvpo_4IV9wWr0chooLPUpGPND11S2shqvg9lvCt6Q0ny52ishJx6hVmwemKBz26wLy-fBBOF1WvSLyUVtz2QV7l0TRfZVeXnl6iVxX3CTTt2UrIzcb0hI8bRY9I6aHx4/s600/tran-mong-tu-9a.png" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="386" data-original-width="600" height="258" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhvLzisnTz04tkynp38BmhqojbR-j3a3FyYxtg4jPY2hOUnTxh3VbZUZ7Y6OeWNvpo_4IV9wWr0chooLPUpGPND11S2shqvg9lvCt6Q0ny52ishJx6hVmwemKBz26wLy-fBBOF1WvSLyUVtz2QV7l0TRfZVeXnl6iVxX3CTTt2UrIzcb0hI8bRY9I6aHx4/w400-h258/tran-mong-tu-9a.png" width="400" /></a></strong></div><strong><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjufpZKrcDO-KGvkAovPfWXRYADpIJTTFyNjz756Ssa3wWWJK6AUFiPepLJ7z3cYFUjqpB-12na-3nSKaj4r8OVHes9Wa2qQCDxbdUS9P1y3Z9szUi8jmWp_33Pm_6fAofGNeEaIgE9Y6VfAw6eJGnu0lc2HG0PuqVrgtQFH7KLg0LaGup7yD9baMfLRJI/s862/tran-mong-tu-9b.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="862" data-original-width="485" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjufpZKrcDO-KGvkAovPfWXRYADpIJTTFyNjz756Ssa3wWWJK6AUFiPepLJ7z3cYFUjqpB-12na-3nSKaj4r8OVHes9Wa2qQCDxbdUS9P1y3Z9szUi8jmWp_33Pm_6fAofGNeEaIgE9Y6VfAw6eJGnu0lc2HG0PuqVrgtQFH7KLg0LaGup7yD9baMfLRJI/w360-h640/tran-mong-tu-9b.jpg" width="360" /></a></div></strong><p></p><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 9: </em></strong><em>Trần Mộng Tú nơi thư phòng. Trên cánh cửa bên ngoài phòng làm việc của TMT có dán mảnh giấy với mấy chữ viết tay của Frank, chồng Chị:</em><strong><em> “Quiet! Poet at work”</em></strong><em>, sao cho đám con nhỏ không làm phiền mẹ.</em><em> Hơn 40 năm sau ngày cưới, nay đã là ông bà nội ngoại, nhưng họ vẫn giữ được lễ “tương kính như tân”. </em>[nguồn: Blog’s TMT]<strong> </strong><strong> </strong></p>
<p><br />
<strong>NHÀ</strong><strong> THỜ TÂN ĐỊNH SÀI GÒN 23 NĂM SAU [11-1998]</strong></p>
<p><em>… “</em><em>Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định.</em><strong></strong><em>Tôi đi len lỏi giữa những dãy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.<br />
<br />
Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến.</em><em>”</em> <strong>[Bình Thủy tháng 8-1969, </strong><em>Tân Định, tháng 11-1998</em><em>] [5]</em></p>
<p><strong>THƠ TMT TRONG SÁCH GIÁO KHOA MỸ NĂM 2000</strong></p>
<p>Có ba sự kiện đáng nhớ năm 2000 trong sự nghiệp văn học của TMT: </p>
<ul>
<li>Từ năm 2000, có một giai đoạn Trần Mộng Tú viết truyện nhi đồng cho báo Los Angeles Times; </li>
<li>Có thơ Anh ngữ trong sách giáo khoa Mỹ cho chương trình trung học (American Literature – Glencoe – 1999). </li>
<li>Chủ Bút Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California. (2002 - 2005). </li>
</ul>
<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiP8l5GnymX7sTY_CylPY-5Ubwjs2inOTHwBeCJVhGVudWzKUINIXW-rvlvOaoD2r1AlT4Z4TYIZ7bpH_RiPz1WzlUbjdAmAdVW14ggRmpa0COjJEk7Yb9a7OK-sLBpYNNXqJUqIk7LqKU81yurjHHf_Ub5iAhy67lL0HGFND5Y0aE02POqKyCdrp3l9IQ/s529/tran-mong-tu-10.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="529" data-original-width="398" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiP8l5GnymX7sTY_CylPY-5Ubwjs2inOTHwBeCJVhGVudWzKUINIXW-rvlvOaoD2r1AlT4Z4TYIZ7bpH_RiPz1WzlUbjdAmAdVW14ggRmpa0COjJEk7Yb9a7OK-sLBpYNNXqJUqIk7LqKU81yurjHHf_Ub5iAhy67lL0HGFND5Y0aE02POqKyCdrp3l9IQ/w301-h400/tran-mong-tu-10.jpg" width="301" /></a></div><p align="center"><strong><em>Hình 10:</em></strong><em> Trần Mộng Tú viết truyện ngắn nhi đồng tiếng Anh mỗi cuối tuần trên báo Los Angeles Times từ năm 2000. </em>[nguồn: L.A. Times archives]</p>
<p>Trong bộ sách giáo khoa <strong>Glencoe Literature,</strong> trước khi giới thiệu bài thơ <strong>“Quà Tặng Trong Chiến Tranh,</strong> qua mục <em>“Gặp Trần Mộng Tú</em>”, tác giả bài thơ được giới thiệu như sau: <em>Trần Mộng Tú người có trải nghiệm trực tiếp với chiến tranh, đã phát biểu: <strong>“Chiến tranh là điều khủng khiếp”</strong>. TMT sinh ở Hà Đông, Bắc Việt Nam. Cô và gia đình di cư vào Nam năm 1954. Do cuộc chiến tranh Đông Dương, Pháp đã bị lực lượng cộng sản đẩy ra khỏi Việt Nam. Rồi Miền Nam Việt Nam cũng không yên ổn được bao lâu, và một cuộc nội chiến nổ ra giữa cộng sản và người quốc gia không cộng sản. Tới thập niên 1960s, khi Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, thì TMT làm việc cho hãng thông tấn AP ở Sài Gòn. Khi Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Việt Nam năm 1975 </em>[thực sự Hoa Kỳ đã rút quân ra khỏi Việt Nam từ 1972, ghi chú của người viết],<em> AP đã di tản nhân viên Việt Nam của họ do sợ bị cộng sản trả thù, TMT và gia đình cùng với nhiều ngàn người Việt khác đã tỵ nạn sang Hoa Kỳ. Từ bậc tiểu học, TMT đã mơ trở thành nhà văn, nhưng thơ văn của TMT chỉ thực sự được xuất bản tại Hoa Kỳ. Hiện nay TMT làm thơ, viết truyện ngắn cho các nhà xuất bản văn học tiếng Việt tại Hoa Kỳ và hải ngoại. TMT sinh năm 1943.<strong>” </strong></em><strong>[3]</strong></p>
<p> Phần tiểu sử Trần Mộng Tú trong cuốn sách Giáo khoa Glencoe (2000), phải nói là thiếu sót, chỉ ghi cô làm cho hãng Thông tấn AP và làm thơ, <strong>nhưng đã không nói tới một sự kiện quan trọng ảnh hưởng trên suốt cuộc đời TMT, là cô trở thành quả phụ ở tuổi mới ngoài 20, khi người chồng mới cưới của cô đã tử trận chỉ 3 tháng sau ngày cưới</strong>. </p>
<p>Một chi tiết nữa khá quan trọng, là bài thơ <strong>Quà Tặng Trong Chiến Tranh</strong> bản gốc tiếng Việt là cuộc đối thoại đau xót giữa hai người: cô gái trẻ TMT và người chồng mới cưới vừa tử trận, nhưng bản dịch bài thơ sang tiếng Anh có đoạn lại trở thành cuộc độc thoại của “ngôi thứ nhất”. Sự sơ sót ấy vẫn lặp lại trong hai cuốn sách giáo khoa Mỹ xuất bản cách nhau 9 năm, [Visions of War 1991, và Glencoe Literature 2000].</p>
<p>Một bản dịch “Quà Tặng Trong Chiến Tranh” của Đặng Vũ Vương đúng với tinh thần nguyên bản tiếng Việt nhưng là 54 năm sau (1969 – 2023): </p>
<p><strong> </strong></p>
<p><strong>QUÀ TẶNG TRONG CHIẾN TRANH</strong><br />
<em>GIFTS IN WARTIME </em></p>
<p><strong>Em tặng anh hoa hồng</strong><br />
my gift to you a rose<br />
<strong>Chôn trong lòng huyệt mới</strong><br />
to bury it inside the newly dug grave<strong></strong><br />
<strong>Em tặng anh áo cưới</strong><br />
my gift to you my wedding dress<br />
<strong>Phủ trên nấm mồ xanh</strong><br />
to drape it over the new green tomb<br />
<strong>Anh tặng em bội tinh</strong><br />
you gave me the silver star <br />
<strong>Kèm với ngôi sao bạc</strong><br />
that came along with the military medal<br />
<strong>Chiếc hoa mai màu vàng</strong><br />
and the insignia of yellow apricot flowers<br />
<strong>Chưa đeo còn sáng bóng</strong><br />
that are still shiny for being never worn</p>
<p><strong>Em tặng anh tuổi ngọc</strong><br />
I gave you the jade-quality time<br />
<strong>Của những ngày yêu nhau</strong><br />
Of the days of us loving each other<br />
<strong>Đã chết ngay từ lúc</strong><br />
that died right away at the moment<br />
<strong>Em nhận được tin sầu</strong><br />
when I received the dreadful news<br />
<strong>Anh tặng em mùi máu</strong><br />
You gave me the smell of blood<br />
<strong>Trên áo trận sa trường</strong><br />
still lingering on your battle dress<br />
<strong>Máu anh và máu địch</strong><br />
your blood and the enemy’s blood <br />
<strong>Xin em cùng xót thương</strong> <br />
and asked me to have pity on both</p>
<p><strong>Em tặng anh mây vương</strong><br />
I gave you the hanging clouds<br />
<strong>Mắt em ngày tháng hạ</strong><br />
the eyes of mine of summer days<br />
<strong>Em tặng anh đông giá</strong><br />
I gave you the wintry freeze<br />
<strong>Giữa tuổi xuân cuộc đời</strong><br />
In the middle of the spring of life<br />
<strong>Anh tặng môi không cười</strong><br />
you gave me non smiling lips<br />
<strong>Anh tặng tay không nắm</strong><br />
you gave me unclenched hands<br />
<strong>Anh tặng mắt không nhìn</strong><br />
you gave me non seeing eyes<br />
<strong>Một hình hài bất động</strong><br />
A totally non-moving form<strong><br />
</strong><strong> </strong><strong>Anh muôn vàn tạ lỗi</strong><br />
I beg you I beg you to pardon me<br />
<strong> </strong><strong>Xin hẹn em kiếp sau</strong><br />
with the hope of a next life 's reunion<br />
<strong> </strong><strong>Mảnh đạn này em giữ</strong><br />
This shrapnel is for you to keep<br />
<strong>Làm di vật tìm nhau.</strong><br />
as a token for us to find each other</p>
<p><strong>Sài Gòn </strong><strong>Tháng 7/ 1969</strong><br />
<strong>Trần Mộng Tú </strong><br />
<strong>[ Đặng Vũ Vương – Translated 4/16/2023 ]</strong><br />
<strong> </strong></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi_dLivlUKKaorUWPPs7h9jR7ysarh-Kz-30JA_ffVAs0f0xCakuGuhfs782XJkUv1SwJrwbsGRyjotqDvT1Dlm2Xf9OQW7witmntPH5e_RbMmaMHEp_v82N2OpqcZvggOlJq8QvjLQSKCbZ6lHT2CqFg7hQYYAUPppPMdyRCLO9iF5uCvzUhzfN6oEwIE/s955/tran-mong-tu-11.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="327" data-original-width="955" height="220" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi_dLivlUKKaorUWPPs7h9jR7ysarh-Kz-30JA_ffVAs0f0xCakuGuhfs782XJkUv1SwJrwbsGRyjotqDvT1Dlm2Xf9OQW7witmntPH5e_RbMmaMHEp_v82N2OpqcZvggOlJq8QvjLQSKCbZ6lHT2CqFg7hQYYAUPppPMdyRCLO9iF5uCvzUhzfN6oEwIE/w640-h220/tran-mong-tu-11.jpg" width="640" /></a></div><br /><div style="text-align: center;"><em><b>Hình 11</b>:</em><em> từ trái, (1) bìa cuốn Sách Giáo khoa Văn Học Mỹ, (2) trang đầu của tác phẩm với thủ bút của nhà thơ Trần Mộng Tú tặng người viết, 3) trang tiểu sử, giới thiệu nhà thơ Trần Mộng Tú;</em><em>(4) trang thơ tiếng Anh “Quà Tặng Chiến Tranh” với hai tấm hình tìm thấy được trên xác của một tử sĩ Bắc quân. American Literature Textbook, Glencoe/ McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000. </em>[tư liệu Ngô Thế Vinh]</div><p></p>
<p>Bài thơ <strong>“Quà Tặng Trong Chiến Tranh”,</strong> dịch sang Anh văn đã được chọn vào sách giáo khoa Mỹ (American Literature – Nxb Glencoe /McGraw-Hill) vào năm 1999, để cho các học sinh Trung Học có dịp so sánh với <strong>bài diễn văn </strong><strong>“</strong><strong>The Gettysburg Address</strong><strong>”</strong><strong> của Tổng Thống Abraham Lincoln</strong> đã làm nhiều người xúc động và tự hào. </p>
<p> TMT thì xúc động vì bài Thơ đó viết vào năm 1969<strong><em>, </em></strong><strong><em>“</em></strong><strong><em>như một tờ vàng mã</em></strong><strong><em>”</em></strong><strong><em> đã hóa trên phần mộ ở đất nước Việt ba mươi năm về trước, bây giờ ở trên đất Mỹ bài </em></strong><strong><em>t</em></strong><strong><em>hơ được mang ra như một mảnh băng quấn lại một vết thương đã thành sẹo. Vết sẹo, thoảng có khi nào cúi xuống nhìn cũng chợt ửng đỏ</em></strong><strong><em>”</em></strong><strong><em>.</em></strong><strong></strong><strong>[6]</strong></p>
<p><strong>Một giai thoại về bà cô Trần Mộng Tú: </strong>có một câu chuyện hy hữu về cuốn sách, Jessy là tên một đứa cháu gọi Frank -- chồng TMT bằng bác, năm đó Jessy học lớp 11 ở Houston, Texas. Khi cháu được học bài thơ <strong>"A Gift in Wartime"</strong> cháu giơ tay nói: <strong>Đó là bài Thơ của</strong><strong> Cô tôi /</strong><strong> My aunt</strong>. Nhưng không ai tin vì Jessy là thằng bé Mỹ đặc, tóc vàng mắt xanh. Tháng sau, cháu Jessy tới Seattle đòi chụp một tấm hình với Aunty Tú, rồi mang về lớp để làm bằng chứng, lúc đó thì tụi bạn Jessy mới thực sự tin. <br />
</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjoDqrFq_jMSYuvx6KaL8tQd8It5Voj-GSgnoaU6uZs50g-Z3TBi093rFk9IZQyv_ONFRReSPahqxL2_simW2xTHNoGPrGpazFveFJcFUv5RWiCtnlTtayQGZzTyjVI9ETCxmd5RnM1S4zxvSNpl8sE9c6dkZUyHlEDtoElsPI1Q3Oyv1bXT7_fp_fnMKw/s457/tran-mong-tu-12.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="457" data-original-width="378" height="320" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjoDqrFq_jMSYuvx6KaL8tQd8It5Voj-GSgnoaU6uZs50g-Z3TBi093rFk9IZQyv_ONFRReSPahqxL2_simW2xTHNoGPrGpazFveFJcFUv5RWiCtnlTtayQGZzTyjVI9ETCxmd5RnM1S4zxvSNpl8sE9c6dkZUyHlEDtoElsPI1Q3Oyv1bXT7_fp_fnMKw/s320/tran-mong-tu-12.jpg" width="265" /></a></div><p align="center"><strong><em>Hình 12:</em></strong><em> Trần Mộng Tú 1994 </em>[photo by Lê Phúc]</p>
<p><strong>2003 LOS ANGELES: THE ETHNIC PULITZERS</strong></p>
<p>Năm 2003, Trần Mộng Tú được <strong>The New California Media (NCM)</strong> trao giải thưởng báo chí cho <strong>bài “Bình Luận”: <em>Một chốn Bình an [A Safe Place],</em></strong> đã được đăng trên trên nguyệt san Phụ Nữ Gia Đình. Giải thưởng đặc biệt này còn có tên gọi là <strong>“The</strong><strong> </strong><strong>Ethnic Pulitzers”</strong><strong>.</strong> </p>
<p> Tổ chức NCM đã viết về TMT như sau:<em> “Trần Mộng Tú đã được biết tới trong thế giới truyền thông từ 1965 </em>[*từ 1968, ghi chú / hiệu đính của người viết]<em> như một thư ký của hãng thông tấn AP Sài Gòn. Khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, Trần Mộng Tú đã thoát ra khỏi Việt Nam như một người tỵ nạn. Với lòng yêu văn chương Việt Nam cùng với những cảm xúc của tình cảnh lưu vong đã biến cô thành một nhà văn. Cùng với công việc của một chủ bút, Trần Mộng Tú còn phụ trách mục bình luận trên tờ báo tiếng Việt, đúng như tên gọi quan tâm tới các vấn đề “Phụ nữ và Gia đình”. Trần Mộng Tú đã viết và xuất bản một tập thơ và một cuốn truyện ngắn. Bài bình luận được thắng giải của Trần Mộng Tú viết về đứa con gái của bà lên New York làm việc thiện nguyện cho hội Hồng Thập Tự ngay sau biến cố 9/11/2001. <strong>Bỗng chốc, bà cảm thấy nước Mỹ nơi bà chọn đi tỵ nạn sau cuộc chiến tranh xâu xé ở Việt Nam, không còn là một chốn bình an như bà vẫn nghĩ.</strong> Với lòng hãnh diện và cả với những nỗi lo âu cho đứa con của mình trên xứ sở đang dung thân, đã thúc đẩy bà viết bài báo này.Trần Mộng Tú phát biểu: “Mặc dầu đó là mối lo của một bà mẹ Việt Nam, nhưng cũng là mối lo của tất cả các bà mẹ khác.” </em></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhg8wW_RUATuqwTGGz_VvWEa8EZol8VyCLN92mDZFNBGzpDD5hTTjSGP8MKDHg8dskSiFZcuURrZm4hG-XpUcveJD-nG69TEn_P_HFKuQXGIYWV6OsR1gKSgpEweKT38YqMSqNNPhB7MCTrX6h_-ozsiAmXalS9CMILUm-x0kA_JDS1ztBOC3_68O2vWkE/s546/tran-mong-tu-13.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="546" data-original-width="316" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhg8wW_RUATuqwTGGz_VvWEa8EZol8VyCLN92mDZFNBGzpDD5hTTjSGP8MKDHg8dskSiFZcuURrZm4hG-XpUcveJD-nG69TEn_P_HFKuQXGIYWV6OsR1gKSgpEweKT38YqMSqNNPhB7MCTrX6h_-ozsiAmXalS9CMILUm-x0kA_JDS1ztBOC3_68O2vWkE/w231-h400/tran-mong-tu-13.jpg" width="231" /></a></div><p></p><p align="center"><strong><em>Hình 13: </em></strong><em>Năm 2003, Trần Mộng Tú được The New California Media (NCM) trao giải thưởng báo chí cho bài “Bình Luận”: Một chốn Bình an / A Safe Place, đã được đăng trên tờ nguyệt san Phụ Nữ Gia Đình. Giải thưởng đặc biệt này còn có tên gọi là </em><em>“The</em><em>Ethnic Pulitzers”</em><em>. </em>[nguồn: tư liệu TMT]</p>
<p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhCFFEVSTKLzw0h-L3tJBt96KyA252Hx2d2XArjqXSw5zwrVy2uEX-Dub3mAv2f49gTjz5H6TW6nEDwShpy9iSvElxAVcPyEHzmKm2YZC3FyxbMOqlne3MG_fQ5D-RWJ1q-dVe87UT7j7XB-QUS6ftymSUf-6EPdPlbqOuaPzWe7kq74q9Q8I84uraYN0E/s728/tran-mong-tu-14.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="500" data-original-width="728" height="275" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhCFFEVSTKLzw0h-L3tJBt96KyA252Hx2d2XArjqXSw5zwrVy2uEX-Dub3mAv2f49gTjz5H6TW6nEDwShpy9iSvElxAVcPyEHzmKm2YZC3FyxbMOqlne3MG_fQ5D-RWJ1q-dVe87UT7j7XB-QUS6ftymSUf-6EPdPlbqOuaPzWe7kq74q9Q8I84uraYN0E/w400-h275/tran-mong-tu-14.jpg" width="400" /></a></div><strong></strong><br /><div style="text-align: center;"><strong><em>Hình 14</em></strong><em>: hình chụp 2002 tại tòa soạn nhật báo Người Việt, từ trái Minh Phú, Đỗ Quý Toàn, Trần Mộng Tú, Bùi Bích Hà, Hoàng Vĩnh, Phạm Phú Minh. Cũng là thời gian </em><em>Trần Mộng Tú đang làm chủ bút </em><strong><em>Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt</em></strong><em> ở California</em><em>, cùng với nhà văn Bùi Bích Hà làm Chủ nhiệm </em><em>(2002</em><em> - </em><em>2005)</em><em>.</em> [tư liệu NT Ngọc Dung]</div>
<p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgR0n5n7AasKXHiFehJE03JvwRLjfF5Co7CxmJQOqkB-B-uTEIvzZkK--vPUG2QTHlvC0Cw2lMDPQJk4Xt5ckMPeda2mFpwG_-Q3LYrhXsMhPNVU6k0D2Lqjrig6zthevtHeeSQOhhm9cdP_y_L2YV7sluFGNWwiUgQmPUFvVkK7kHLX5ytoWvch31z2vU/s682/tran-mong-tu-15.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="353" data-original-width="682" height="333" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgR0n5n7AasKXHiFehJE03JvwRLjfF5Co7CxmJQOqkB-B-uTEIvzZkK--vPUG2QTHlvC0Cw2lMDPQJk4Xt5ckMPeda2mFpwG_-Q3LYrhXsMhPNVU6k0D2Lqjrig6zthevtHeeSQOhhm9cdP_y_L2YV7sluFGNWwiUgQmPUFvVkK7kHLX5ytoWvch31z2vU/w640-h333/tran-mong-tu-15.jpg" width="640" /></a></div><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 15: </em></strong><em>Bìa Tuyển tập Thơ Song ngữ <strong>Nàng Thơ Ngạo Mạn / The Defiant Muse</strong>, do The Feminist Press at the City University of New York xuất bản 2007, có duy nhất một bài thơ Trần Mộng Tú <strong>“Con Mèo Cô đơn – The Lonely Cat”. </strong></em></p>
<p><strong>HỘI NGỘ AP 36 NĂM SAU: SAIGON 1975 - LITTLE SAIGON 2011 </strong></p>
<p>Năm 2011, tại hải ngoại, lần đầu tiên có một buổi hội ngộ các cựu nhân viên Văn Phòng Associated Press Saigon tại tòa báo Người Việt, Little Saigon, California.<strong> </strong></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjYa81_13ywT3AOY22gMF6cr8w2-Ob8drehkJQ4clnsvjOxFUAWP801g1Vy2FyTf_SKHh3P7L1wMo4ntsXh7Xamiwg_KAWL4_q5bOPfOfH03r8OYGH2hJ19sx__Uwb8cWD5YI6HFsntnRidCqJwWzeq1jQQ2wBdMKiP_ylTEpQLmESKyhh0fVox63QdCmU/s629/tran-mong-tu-16.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="417" data-original-width="629" height="265" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjYa81_13ywT3AOY22gMF6cr8w2-Ob8drehkJQ4clnsvjOxFUAWP801g1Vy2FyTf_SKHh3P7L1wMo4ntsXh7Xamiwg_KAWL4_q5bOPfOfH03r8OYGH2hJ19sx__Uwb8cWD5YI6HFsntnRidCqJwWzeq1jQQ2wBdMKiP_ylTEpQLmESKyhh0fVox63QdCmU/w400-h265/tran-mong-tu-16.jpg" width="400" /></a></div><p align="center"><strong><em>Hình 16:</em></strong><em> Năm 2011, tại hải ngoại có một buổi họp mặt các cựu nhân viên Văn Phòng Associated Press Saigon tại tòa báo Người Việt, Little Saigon, California. T</em><em>ừ trái: Neal Ulevich ( AP)</em><em>,</em><em> Terry Wolkerstofer (nhà</em><em> báo tự do</em><em>)</em><em>,</em><em> Carl Robinson (AP )</em><em>,</em><em> Tr</em><em>ầ</em><em>n M</em><em>ộ</em><em>ng T</em><em>ú</em><em> (AP) và</em><em>Frank (chồng</em><em> TMT</em><em>)</em><em>, Phương </em><em>Dung Robinson (vợ</em><em>Carl)</em><em>,</em><em> Đặng</em><em> Văn Phước,</em><em> áo</em><em> khoác đen (phóng viên nhiếp ảnh AP</em><em>)</em><em>,</em><em> Murray Fromsen (nhà</em><em> báo tự do</em><em>)</em><em>,</em><em> Linda Deutch (nhà</em><em> báo tự do), </em><em>Valerie Komor (</em><em>nhà</em><em> báo tự do</em><em>)</em><em>,</em><em> </em><em>Nick Út (</em><em>phóng viên nhiếp ảnh AP</em><em>)</em><em>, </em><em> Edie Lederer (nhà</em><em> báo tự do</em><em>)</em><em>,</em><em> Dick Pyle (</em><em>T</em><em>rưởng</em><em> phòng Thông Tấn AP</em><em>) và</em><em> vợ; người ngồi phía trước cầm tấm hình là Lư Xây (chuyên viên phòng tối rửa hình của AP).</em> [tư liệu và ghi chú của Trần Mộng Tú]</p>
<p><strong>2016 ĐỐT HÌNH ĐÁM CƯỚI VÀ ĐÁM TANG </strong></p>
<p><em>“</em><em>Tôi nghĩ mình đã bước vào tuổi cuối đời rồi, lúc</em><em> đó TMT đã bước qua tuổi 70, </em><em>không biết "Cuốn theo chiều gió" lúc nào. <strong>Không nỡ để lại lúng túng cho mấy đứa con. Chúng đốt thì sợ Mẹ buồn, giữ thì không biết để đâu. Thôi thì mình tránh cho ai được cảnh lúng túng đau lòng thì nên tránh.</strong></em><strong></strong><strong><em>Mình quen với đau lòng rồi.</em></strong><em> Bây giờ tôi còn giữ lại một chút tàn tro.</em><em>”</em></p>
<p>Hình đám cưới và đám tang gần 100 tấm. Đã đốt hết một nửa ở nhà. Còn một nửa mang xuống Cali đốt tiếp. <strong>Lúc đốt cũng đau lòng lắm, nước mắt nước mũi giàn giụa.</strong></p><p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgFDh3vcupcUNe1BXN9icxiQMNJzxAp-SEtIh_iKtNS6NX3ks6OMfrrZLCuui6DblUyFI3fW-on87e0AG1_GwDtNQ0fUUdBOCnWOx6EF4u3VqEQp4ReK58h4u06wp0-uAo0EC7KNIWvrvnNM5Z9IKC2qMMjvMO7mrMLPPUKbvfm4DlkKh3KEFAtlTyBBfs/s769/tran-mong-tu-17.jpg" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="358" data-original-width="769" height="298" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgFDh3vcupcUNe1BXN9icxiQMNJzxAp-SEtIh_iKtNS6NX3ks6OMfrrZLCuui6DblUyFI3fW-on87e0AG1_GwDtNQ0fUUdBOCnWOx6EF4u3VqEQp4ReK58h4u06wp0-uAo0EC7KNIWvrvnNM5Z9IKC2qMMjvMO7mrMLPPUKbvfm4DlkKh3KEFAtlTyBBfs/w640-h298/tran-mong-tu-17.jpg" width="640" /></a></div><p></p><p style="text-align: center;"><strong><em>Hình 17:</em></strong><em> Đốt hình đám cưới, đốt hình đám tang ngày 31/10/2016, trong giàn giụa nước mắt, rũ bỏ kỷ niệm, trả về với “tro than” trong sân nhà Chị Bùi Bích Hà</em>. [tư liệu TMT] </p>
<p>TMT không sao nhớ được đã viết xuống bao nhiêu bài thơ. Vì trong cả 15 năm đầu ở hải ngoại, chưa có computer nên toàn viết tay, lúc nào TMT cũng làm thơ được. Đang lái xe, ngưng lại ở góc đường hay kẹt xe ở xa lộ cũng viết được những câu thơ chợt đến. Hồi đó đã có lần tông vào cột telephone rồi. Một lần tông vào cái xe truck đằng trước vì lúi húi viết trên volant. Bây giờ thỉnh thoảng dọn lại tủ sách, hoặc giữa đống sách vở chung quanh nhà, gặp một bài thơ, không biết viết từ bao giờ. </p>
<p><strong>Nhiều người nhắc tới </strong><strong>“</strong><strong>Bình Thủy 1969</strong><strong>” </strong><strong>gọi đó là truyện ngắn</strong><strong> – </strong><strong>nhưng thực</strong> <strong>sự</strong><strong> đó</strong><strong> là một "tự truyện" của TMT</strong><strong>; được nhà văn</strong><strong> Phùng Nguyễn đánh giá đó là một "Hồi Ký về Chiến Tranh hay nhất</strong><strong>”</strong><strong>.</strong><strong> [6]</strong><strong> </strong></p>
<p><strong>2009 CÔ GÁI TRONG HÌNH CÓ PHẢI TÔI KHÔNG? </strong></p>
<p></p><div class="separator" style="clear: both; font-weight: bold; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgeJJx51JnyAcilTHiW6CeUkgvLcx3GA_UDTfR07mPr3-2uoSdEHSY3NEambYvjhZNpQbd0DYGoxyF2043_o7fF6e745ti6nD1U9O_qZ8g4FFklSPPCHHViq4gzr0wzQUS-loVMbxDYEE6Yt1aZGRIODoOVzBT-P2KmDGNasYS0SeGu66y4KA5mg_oNMVI/s941/tran-mong-tu-18.jpg" style="clear: left; float: left; margin-bottom: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="941" data-original-width="405" height="400" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgeJJx51JnyAcilTHiW6CeUkgvLcx3GA_UDTfR07mPr3-2uoSdEHSY3NEambYvjhZNpQbd0DYGoxyF2043_o7fF6e745ti6nD1U9O_qZ8g4FFklSPPCHHViq4gzr0wzQUS-loVMbxDYEE6Yt1aZGRIODoOVzBT-P2KmDGNasYS0SeGu66y4KA5mg_oNMVI/w173-h400/tran-mong-tu-18.jpg" width="173" /></a></div><br /><i>Có người gửi tôi tấm hình trên mạng<br />
cô gái Sài Gòn áo trắng khăn tang<br />
đi trong Sài Gòn bốn mươi năm cũ<br />
cô gái trong hình có phải tôi không?<br />
Ô hay tại sao tự nhiên tôi nhận<br />
Sài Gòn cả trăm cô gái giống tôi<br />
cả ngàn khăn tang trên đầu góa phụ<br />
góa phụ còn hồng một vệt son môi<br />
Ô hay tại sao tự nhiên tôi chối<br />
Sài Gòn ngày ấy trắng toát khăn tang<br />
những cô trẻ lắm mắt đầm đìa lệ<br />
theo tay ai dắt đi vào nghĩa trang<br />
Sài Gòn bây giờ khói nhang đã tắt<br />
góa phụ ngây thơ tóc đã phai xanh<br />
nhìn lại tấm hình nhận ra cô gái<br />
khẽ gọi tên cô Trần Thị ChiếnTranh.</i><br />
<strong> </strong><br />
<strong>Tmt</strong><strong> 30/ 04/ 2009</strong><p></p>
<p><strong><em> </em></strong></p><p><strong><em><br /></em></strong></p>
<p><strong>VẪN VỚI MỘT CHỮ NẾU</strong><br />
<em>Nếu mùa Xuân có thật</em><br />
<em>Em sẽ quên tất cả những mùa khác</em><br />
<em>Nếu anh sống sót trở về</em><br />
<em>Em sẽ quên như chưa hề có chiến tranh.</em></p>
<p><strong>_ tmt </strong></p>
<p><strong>2023 NHƯNG RỒI VẪN CỨ MÃI MỘT BÀI THƠ THÁNG 4 Ở ĐÂY</strong><br />
<em>Hôm qua</em><br />
<em>ở đây là ngày đầu mùa xuân</em><br />
<em>tờ lịch rơi xuống một nụ đào</em><br />
<em>Tháng Ba sắp hết</em><br />
<em>Tháng Tư như lệ sắp trào</em></p>
<p><em>Tháng Ba ở quê tôi năm đó</em><br />
<em>thành phố nào thảng thốt</em><br />
<em>con đường nào chảy máu</em><br />
<em>bãi biển nào oan khiên</em><br />
<em>Một người lính vừa tự kết liễu đời mình</em></p>
<p><em>Giày trận có linh hồn</em><br />
<em>nón trận có khối óc</em><br />
<em>áo nhà binh có gói một trái tim</em><br />
<em>tất cả phủ trên anh</em><br />
<em>thành một bài “Truy Điệu”</em></p>
<p><em>Tháng Ba</em><br />
<em>người giẫm đạp lên nhau</em><br />
<em>chiếc thuyền lao ra biển</em><br />
<em>tiếng kêu thất thanh</em><br />
<em>tiếng khóc như cánh chim bay lạc</em></p>
<p><em>Tháng Ba</em><br />
<em>con chạy về tìm Mẹ</em><br />
<em>Con đi đi</em><br />
<em>Mẹ già rồi ở lại</em></p>
<p><em>Tháng Ba</em><br />
<em>Chồng chạy về tìm vợ</em><br />
<em>Em đi đi</em><br />
<em>Các con đi đi</em><br />
<em>Anh là lính</em><br />
<em>Anh ở lại</em></p>
<p><em>Thế là Mẹ mất con</em><br />
<em>Không biết mất nơi nào</em><br />
<em>Thế là vợ mất chồng</em><br />
<em>Không biết mất ở đâu</em></p>
<p><em>Tháng Tư</em><br />
<em>cả nước mất nhau</em><br />
<em>mất tất cả</em><br />
<em>không còn gì</em></p>
<p><em>Vật ngoài thân</em><br />
<em>thời gian tìm lại được</em><br />
<em>Nhưng mảnh vỡ trong tim</em><br />
<em>đã rơi dần từng mảnh</em><br />
<em>ngay bước đầu tiên</em><br />
<em>trên con đường di tản</em><br />
<em>không bao giờ tìm lại được</em></p>
<p><em>Người di tản</em><br />
<em>của bất cứ quốc gia nào</em><br />
<em>trái tim cũng mất dần từng mảnh</em><br />
<em>nên khi chết</em><br />
<em>họ chết với một trái tim không nguyên vẹn</em><br />
<em>có người chết</em><br />
<em>với lồng ngực rỗng</em><br />
<em>họ mất nguyên cả trái tim</em></p>
<p><em>Tháng Ba ở đây vào Xuân</em><br />
<em>tháng Tư đầy hoa đào nở</em><br />
<em>mỗi đóa hoa như một giọt nước mắt hồng</em><br />
<em>rơi xuống trái tim tôi.</em></p>
<p><strong>– tmt </strong><br />
<strong>(Vào Xuân 3-20-2023)</strong></p>
<p> <br />
<strong>THƠ VÀ CHỮ TMT: MỘT SUỐI NGUỒN TƯƠI TRẺ </strong></p>
<p>Kể từ bài thơ đầu tiên, cho tới nay Trần Mộng Tú đã có hơn nửa thế kỷ làm thơ, viết văn, viết báo. Bước qua tuổi “cổ lai hy”, chưa có dấu hiệu gì là TMT chậm lại. <strong>Vẫn có đó một TMT như một suối nguồn tươi trẻ, luôn luôn mới mẻ, và tưởng như là bất tận.</strong> </p>
<p><strong>Có</strong><strong> thể nói cái hay của t</strong><strong>hơ của TMT</strong><strong> là sự giản dị,</strong><strong> </strong><strong>không</strong><strong> bị gò bó trong</strong><strong> </strong><strong>nguyên tắc</strong><strong> hay một thể thơ</strong><strong> nào</strong><strong>,</strong><strong> </strong><strong>thơ</strong><strong> của TMT </strong><strong>chỉ như "chuyện</strong><strong> </strong><strong>kể" hoặc ngắn như một "</strong><strong>b</strong><strong>ản </strong><strong>t</strong><strong>in"</strong><strong> và chất thơ là ngay nơi mỗi con chữ. Không chỉ làm thơ, nhưng TMT còn viết văn – văn của Chị như một thể thơ xuôi – prose.</strong></p>
<p>Ngày nào mà Trần Mộng Tú còn thở, còn hiện diện trên thế gian này, vẫn còn những trái ngọt hay cả với những trái đắng từ <strong><em>“thực phẩm trần gian – les nourritures terrestres</em></strong><em>”</em> [tên một tác phẩm thơ xuôi của André Gide, 1897], và Trần Mộng Tú vẫn còn làm thơ, <strong>thơ và chữ chính là hơi thở cuộc sống của Trần Mộng Tú. </strong></p>
<p> Để có thể viết đầy đủ về cuộc đời rất đặc biệt của nhà thơ Trần Mộng Tú, thật sự phải cần tới một cuốn sách. Cũng nhân đây gợi ý với các bạn trẻ trong và ngoài nước, đang chuẩn bị cho một luận án văn học, <strong>Trần Mộng Tú – đi ra từ chiến tranh, nhưng lại là<em> “biểu tượng của một nền văn hóa hòa bình”</em>, và chân dung TMT sẽ </strong><strong>là một đề tài hấp dẫn và</strong><strong> </strong><strong>phong phú để các bạn trẻ</strong><strong> </strong><strong>khám phá</strong><strong> và</strong><strong> dấn thân vào. </strong></p>
<p><strong>NGÔ THẾ VINH </strong><br />
<strong>Little Saigon, Fourth of July 2023 </strong></p>
<p><strong>Tham Khảo:</strong></p>
<ol>
<li><em>Visions of War, Dreams of Peace. Writing of Women in the Vietnam War.</em><em>Warner Books, New York 1991 </em></li><br />
<li><em>Shrapnel in The Heart. Letters and Remembrances from the Vietnam Veterans Memorial. Laura Palmer. Vintage Books, New York 1987.</em></li><br />
<li><em>American Literature Textbook, Glencoe/ McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000</em></li><br />
<li><em>NPR* </em><em>Celebrated Military Nurse, Poet Revealed as a Fraud</em><em> _ September 30, 2006 </em><a href="https://www.npr.org/2006/09/30/6173681/celebrated-military-nurse-poet-revealed-as-a-fraud"><em>https://www.npr.org/2006/09/30/6173681/celebrated-military-nurse-poet-revealed-as-a-fraud</em></a></li><br />
<li><em>Bình Thủy 1969. Hồi ức Trần Mộng Tú. </em>Mưa Sài Gòn Mưa Seattle. Nxb Văn Mới, California (2006).</li><br />
<li><em>Ba câu hỏi cho Trần Mộng Tú. Phùng Nguyễn. Da Màu 27/09/2016 </em><a href="https://damau.org/44226/ba-cau-hoi-cho-tran-mong-tu" target="_blank"><em>https://damau.org/44226/ba-cau-hoi-cho-tran-mong-tu</em></a></li>
</ol>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-16578945094126467672023-07-02T03:08:00.007-07:002023-07-02T06:34:43.100-07:00Vòng Đai Xanh của nhà văn Ngô Thế Vinh<p style="text-align: center;">Trịnh Y Thư</p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjO2Oj_O2gDTAOhssZ_NxyW3I_JLxFFmDxbvTQ1adNz3uI-HOPakxgCTAYN0vs5fB7KFdo-YIA23acSQi0zYL-X4pNEIsID99DKH5kLvoVVVt_whS_ic9CP_CgbnrBq3rkZzMAotbmDj4Y5U5v2LNr-YhIHcxOchaICZmNvaUSr76JlZ4eMK5qJDuz8W80/s600/VongDaiXanh600_White.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="444" data-original-width="600" height="474" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjO2Oj_O2gDTAOhssZ_NxyW3I_JLxFFmDxbvTQ1adNz3uI-HOPakxgCTAYN0vs5fB7KFdo-YIA23acSQi0zYL-X4pNEIsID99DKH5kLvoVVVt_whS_ic9CP_CgbnrBq3rkZzMAotbmDj4Y5U5v2LNr-YhIHcxOchaICZmNvaUSr76JlZ4eMK5qJDuz8W80/w640-h474/VongDaiXanh600_White.jpg" width="640" /></a></div><br /><div class="separator" style="clear: both; text-align: justify;"><span style="text-align: left;">Cuốn tiểu thuyết </span><em style="text-align: left;">Vòng Đai Xanh </em><span style="text-align: left;">của nhà văn Ngô Thế Vinh được khởi viết từ những năm giữa của thập niên 60, khi có phong trào FULRO nổi dậy trên Tây Nguyên (1964). Lúc
đó tác giả đang giữ chức Chủ bút báo </span><em style="text-align: left;">Tình Thương </em><span style="text-align: left;">(1964-
1967), một cơ quan tranh đấu văn hóa xã hội của sinh viên Y
khoa Sài Gòn. Cuốn sách được hoàn tất trong thời gian ông
gia nhập Lực lượng Đặc biệt, giữ chức vụ Y sĩ trưởng Liên
đoàn 81 Biệt cách Dù, với địa bàn hoạt động chính là Tây
Nguyên, nhà Thái Độ xuất bản lần đầu năm 1970, và năm
sau, được trao tặng giải thưởng Văn chương Toàn quốc bộ
môn Văn.</span></div><p><span></span></p><a name='more'></a><p></p>
<p> Khi tác giả Ngô Thế Vinh hoàn tất cuốn sách này, chiến
tranh Việt Nam đang đi vào giai đoạn khốc liệt nhất, đó là
đầu thập niên 70 khi chính quyền Mỹ đẩy mạnh cuộc “Việt
Nam hóa” chiến tranh để tìm cách rút lui khỏi miền Nam
trong danh dự sau khi nhận ra họ không thể chiến thắng bằng
quân sự mặc dù đã đổ không biết bao nhiêu tài nguyên và
xương máu vào cuộc chiến. Cuộc chiến kết thúc năm năm
sau đó với một kết quả và hệ quả cực kỳ bi thảm cho một tập
thể con người miền Nam, hoặc bị ném vào những trại giam
khắc nghiệt mệnh danh là “trại cải tạo” hoặc phải bồng bế
nhau liều chết vượt biên đi kiếm sống ở những chân trời xa lạ
đầy trắc trở, khó khăn. Cuộc chiến đã gây chấn thương trong
lòng dân tộc, một vết thương quá lớn đến nỗi mặc dù đã gần nửa thế kỷ trôi qua từ ngày tiếng súng ngưng nổ mà dư âm và nỗi ám ảnh quá khứ vẫn đau nhức khôn nguôi trong tâm tư người dân Việt, dù ở bên này hay bên kia chiến tuyến.
Sinh trưởng trong một bối cảnh lịch sử nhiễu nhương
cộng thêm nhiệt huyết phẫn nộ của tuổi trẻ và lòng yêu quê
hương tha thiết, nhà văn Ngô Thế Vinh đã hoàn tất tác phẩm
của mình như một thực chứng cho một giai đoạn lịch sử. <em>Vòng</em>
<em>Đai Xanh </em>được đánh giá bởi giới trí thức và phê bình là một
trong những tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam trung thực
nhất. Ở đây không thấy “ta-địch”, không thấy “chính-ngụy”
mà chỉ thấy nỗi thống khổ của những nạn nhân bất hạnh bị
ném vào lò lửa chiến tranh bởi những mưu đồ thâm hiểm và
tàn bạo của những thế lực đối nghịch sử dụng ý thức hệ và
những lý tưởng tuy đẹp đẽ nhưng đầy màu sắc hoang tưởng để
biện minh cho một cuộc phân liệt tranh giành ảnh hưởng, đất
đai trong bối cảnh một cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu.
Cuốn sách viết về số phận bi đát của những người Thượng sống trên Tây Nguyên. Sẵn có mâu thuẫn lịch sử với người Kinh, cộng thêm chính sách “Dinh điền” đầy bất công dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, người Thượng dang rộng vòng tay đón nhận sự trợ giúp của đoàn quân Mũ Xanh Mỹ với niềm hy vọng thiết lập một quốc gia Đông Sơn riêng biệt, hoặc chí ít một vùng đất tự trị bao gồm gần 30 sắc dân khác nhau sinh sống trên suốt dải đất miền cao đó. Giấc mơ của họ đã bị đập tan không thương tiếc, một phần vì họ đã quá ngây thơ, <em>“Một quốc gia Đông Sơn riêng biệt chỉ là sự nhiễm độc của vài bộ óc non nớt khi giao tiếp với những người lính Mũ Xanh.” </em>Đó chính là nhận định của nhà văn Ngô Thế Vinh trong cuốn <em>Vòng Đai Xanh</em>. Kỳ thực, “Vòng đai xanh” là kế hoạch chiến lược của chính quyền Mỹ nhằm thiết lập một chiến tuyến phòng thủ xuyên quốc gia toàn vùng Đông Nam Á để ngăn chặn sự bành trướng của khối Cộng từ phương Bắc tràn xuống, mà lực lượng chủ yếu được giao nhiệm vụ thực hiện kế hoạch là Lực lượng Đặc biệt Mỹ, những người lính Mũ Xanh. Được Hollywood “anh hùng hóa” bằng hình tượng một John Wayne anh dũng, kiêu hùng, trừ gian diệt bạo, nhưng thực chất những người lính Mũ Xanh chỉ là một đoàn quân viễn chinh với tất cả sự tàn bạo khiếp hãi của chiến tranh. Khi chấp nhận cộng tác với lính Mũ Xanh Mỹ, những người Thượng hiểu rõ họ đã trở thành thù địch của phe Cộng, và khi bị phe lính Mũ Xanh bỏ rơi, thật mau chóng và dễ dàng họ biến thành miếng mồi ngon cho phe Cộng, và đối với phe Cộng hình phạt nhẹ nhất cho kẻ phản bội là chặt đầu, ném xác xuống suối! Nặng hơn thì cả một buôn bản bị tàn sát, không chừa một mống dù là con vật.</p>
<p><em>“Tranh đấu cho quyền tiến bộ của người Thượng rất ư</em>
<em>là chánh đáng nhưng biến nó thành một phiêu lưu của thù</em>
<em>hận là điều không thể nào chấp nhận được...” </em>Ngô Thế Vinh
viết như thế trong cuốn <em>Vòng Đai Xanh</em>. Ở đoạn khác ông nói
thêm, <em>“... Tôi tự hỏi liệu còn phải đổ thêm bao nhiêu máu và</em>
<em>nước mắt để có một cuộc sống canh tân ở cao nguyên.” </em>Sự
phẫn nộ trong ngòi bút của Ngô Thế Vinh bắt nguồn từ lòng
thương cảm sâu sắc với nỗi bất hạnh của người dân Thượng,
mà theo ông thì, <em>“... nguyên nhân tấn thảm kịch dai dẳng ở</em>
<em>cao nguyên không bắt nguồn từ một mâu thuẫn chủng tộc mà</em>
<em>là sự bất bình đẳng về quyền lợi và cơ hội tiến bộ giữa Kinh,</em>
<em>Thượng.”</em></p>
<p> Ở chừng mực nào đó, tính cách phi lý đầy mâu thuẫn của
cuộc chiến cao nguyên, qua trang viết của Ngô Thế Vinh,
cũng là những gì người ta trông thấy nơi cuộc chiến lớn hơn
trên khắp lãnh thổ miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ: sự nghi
kỵ, mâu thuẫn nặng nề giữa chính quyền Sài Gòn và thành
phần lãnh đạo lực lượng đồng minh Mỹ; sự nhu nhược, bất
tài và bất xứng của các tướng lãnh Nam Việt Nam chỉ huy
trực tiếp cuộc chiến và thi hành chính sách cai trị dân; mưu
đồ riêng tư của các thành phần con buôn chiến tranh mạo
danh tôn giáo hay viện trợ; sự bất ổn và phân hóa trầm trọng
của hậu phương; áp lực to lớn đòi chấm dứt chiến tranh vô
điều kiện của cánh tả bên Mỹ, v.v… Tất cả những sự thật bi
thảm ấy đều được Ngô Thế Vinh phơi bày trong tác phẩm.
Riêng đối với chính sách của Mỹ, ông đã không ngần ngại
nói thẳng quan điểm của mình như sau (qua lời nhân vật nhà
báo Mỹ Davis):</p>
<p>“… <em>với kinh nghiệm những năm dài sống ở lục địa Á châu tôi thấy rõ nguyên nhân sự thất bại của Mỹ. Tôi vẫn bảo Ross là người Mỹ các ông tới đây phải tự coi là khách, vấn đề thể diện có thể không được quan tâm ở Mỹ nhưng đối với người Á châu thì đó là lẽ sống chết của họ. Các ông đã thất bại nếu cứ khăng khăng hành động như chủ nhân ông đất nước này và bắt họ phải làm theo ý mình</em>.”</p>
<p> Cuốn sách đưa ra nhiều vấn nạn to lớn mà kỳ thực cho đến
ngày nay chúng ta vẫn chưa thấy có một đáp án thỏa đáng nào khả dĩ giúp đưa đất nước tiến bộ mạnh mẽ trên nhiều bình
diện, từ kinh tế cho đến đạo đức nhân quần, nhằm chống lại
mối đe dọa thường xuyên và kinh khiếp từ Bắc phương. Cơn
mê giáo điều, không chấp nhận quan điểm người khác, thậm
chí xem người có quan điểm khác mình là kẻ thù địch cần
diệt trừ, đã được nhà văn Ngô Thế Vinh nhìn thấy cách đây
cả nửa thế kỷ như cái gì cần xóa bỏ trong tâm thức dân tộc
nếu muốn có tiến bộ:</p>
<p>“<em>Đối với người trí thức Việt Nam thì cuộc chiến tranh tại đây tự trong bản thân nó mang tất cả sức nặng của một vấn đề quốc tế, một cuộc phiêu lưu thí nghiệm đầy nguy hiểm và dĩ nhiên không phải bằng hỏa lực mà người ta tìm ra lối thoát. Mối bế tắc chính là cơn mê giáo điều có từ lâu giữa hai phía, đã đến lúc họ phải ý thức được rằng chiến tranh có thể đốt cháy tất cả, kể cả tương lai và mơ ước của cả một dân tộc. Bởi vậy họ phải tìm cách tỉnh dậy và thoát ra</em>.”</p>
<p> Điều bi thảm cực kỳ phi lý là cuộc chiến đấu sống còn đầy
cam khổ của người Thượng vùng Tây Nguyên vẫn tiếp diễn
cho đến ngày nay. Sau khi Cộng sản chiếm trọn miền Nam
năm 1975, hàng chục ngàn người Thượng đã bị lùa vào các
“trại cải tạo,” lãnh tụ bị hành quyết, buôn bản cô lập, từng
đoàn người già trẻ lớn bé phải vượt đường bộ tìm lẽ sống qua
cái chết sang tị nạn tại các quốc gia láng giềng. Sự ngược đãi
tưởng như chưa sắc dân nào trên thế giới chịu đựng nhiều
hơn. Thậm chí gần đây, làn sóng người Thượng từ Việt Nam
sang Campuchia tị nạn vẫn không ngưng, nó chỉ chậm lại khi
chính quyền Campuchia ra lệnh trao trả lại Việt Nam những
người tị nạn đó.</p>
<p> Bởi thế tính thời sự cấp bách của cuốn tiểu thuyết <em>Vòng</em>
<em>Đai Xanh </em>không hề suy giảm. Mặc dù sự va chạm giữa Kinh-
Thượng không đến nỗi tàn bạo và khốc liệt như những cuộc
chiến tranh diệt chủng xảy ra ở Thổ Nhĩ Kỳ hồi đầu thế kỷ
XX, hay ở Kosovo thập niên 80 và gần đây nhất ở Myanmar,
nhưng sự sinh tồn của những sắc dân Thượng Việt Nam vẫn
là vấn đề nóng bỏng với những chất vấn đớn đau cho lương
tâm nhân loại ở kỷ nguyên hiện đại này.</p>
<p>– <em>Trịnh Y Thư</em>
26/05/2023 </p>
<p><a href="https://vietbao.com/a316170/vong-dai-xanh-cua-nha-van-ngo-the-vinh">https://vietbao.com/a316170/vong-dai-xanh-cua-nha-van-ngo-the-vinh</a></p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-5478521404156568032023-05-18T19:28:00.003-07:002023-05-18T19:28:39.495-07:00THẾ GIỚI SÁNG TẠO MIỀN NAM VIỆT NAM 1954 – 1975 CHO TỚI NAY<p class="MsoNormal" style="line-height: 115%; text-align: center;"><b><span lang="VI" style="color: #833c0b; font-family: "Arial","sans-serif"; mso-ansi-language: VI; mso-themecolor: accent2; mso-themeshade: 128;">Giới thiệu của người dịch<o:p></o:p></span></b></p><p style="text-align: center;">
<b><span lang="VI" style="color: #833c0b; font-family: "Arial","sans-serif"; font-size: 12.0pt; mso-ansi-language: VI; mso-bidi-language: AR-SA; mso-fareast-font-family: "Times New Roman"; mso-fareast-language: EN-US; mso-themecolor: accent2; mso-themeshade: 128;">Eric Henry</span></b></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgr9wb73IzhFlvfodCwURp7txhQAQ78gtHga6O3ThPUNvfZ4G6LeBvzMBVu5KN6NofSC681dQlaY5Bke2uyvcQwmkkrqcxzp4KsYNJcxoOSzogWWbZAQd5vkv4yFJciYqYvElTzEMfPLZc3oWqaKLV1qD6WIUeHmfrhzukzVWhATaAryD9xPJcCisLY/s800/eric_henry.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="553" data-original-width="800" height="276" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgr9wb73IzhFlvfodCwURp7txhQAQ78gtHga6O3ThPUNvfZ4G6LeBvzMBVu5KN6NofSC681dQlaY5Bke2uyvcQwmkkrqcxzp4KsYNJcxoOSzogWWbZAQd5vkv4yFJciYqYvElTzEMfPLZc3oWqaKLV1qD6WIUeHmfrhzukzVWhATaAryD9xPJcCisLY/w400-h276/eric_henry.jpg" width="400" /></a></div><p>Cuốn sách này là bản dịch một số chân dung văn học báo chí của những nhân vật người Việt đã có những đóng góp đáng kể vào nền văn học, nghệ thuật, và khoa học. Đây là một nguồn thông tin phong phú về xã hội, văn hóa, và lịch sử chính trị của miền Nam Việt Nam, cũng như những sự nghiệp cá nhân liên quan tới con người. </p>
<p> Những con người được mô tả phần lớn thuộc các thành phần nổi bật trong giai đoạn 1954 – 1975. Sau sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 trước lực lượng Bắc quân, đa số họ đã bị cầm tù trong các trại cải tạo cộng sản nhiều năm. Sau đó, khoảng thập niên 1980s, một số sang tỵ nạn tại Hoa Kỳ và vẫn tiếp tục hoạt động sáng tạo.<span></span></p><a name='more'></a> <p></p>
<p>Võ Phiến, nhà văn, viết tiểu luận, và lịch sử văn học, đã nêu rõ đặc tính nền văn học miền Nam Việt Nam như sau: “<em>Ở Miền Nam Việt Nam thời 1954-75, giữa hoàn cảnh chiến tranh, đã phát triển một nền văn nghệ khác hẳn. Trên sách báo tha hồ nở rộ những nụ cười sảng khoái, công kích điều sai chuyện quấy, giễu</em><em> cợt </em><em>những phần tử xấu xa. Không hề có nhân vật nào thấp bé bị bêu riếu trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu một tỉnh cho đến các vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm ran khắp cùng trên mặt sách báo...</em><em>Mặt khác, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng, hay có dở có, cao thâm có mà ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, tha hồ được tìm hiểu, trình bày, quảng bá.</em></p><p><em></em><em>Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy.</em><em>”</em></p>
<p>Sau khi đã cưỡng chiếm Miền Nam năm 1975, chế độ cộng sản đã tìm cách xóa bỏ di sản này bằng kết án tù tội, và hủy diệt tất cả những vết tích còn sót lại. Nhưng kết quả là, hầu như toàn bộ các sưu tập của nền văn học Miền Nam ấy đã tìm lại được, không phải ở Việt Nam, nhưng trong một số các thư viện Đại học Hoa Kỳ, như các Đại học Cornell, Đại học Yale và Đại học Hawaii. </p>
<p>Tác giả của bộ sách này, BS Ngô Thế Vinh, chính ông cũng là một trong những khuôn mặt nổi trội trong sinh hoạt văn học của Miền Nam Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa và chính cá nhân ông đã quen thuộc với những chân dung mà ông mô tả. BS Vinh là một BS Nội khoa và giảng huấn tại một Trung tâm Y khoa, Long Beach, California, nhưng ông cũng là một tác giả không mỏi mệt, với những tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, bình luận văn hóa / cultural commentary (như tác phẩm này), và những phóng sự điều tra. Đặc biệt, ông đã từng du hành khám phá con sông Mekong xuyên suốt chiều dài 4.800 km, và đã viết hai cuốn sách về sự sống còn của con sông lớn của thế giới, và là mạch sống của hơn 70 triệu cư dân sống hai bên ven sông và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Bộ sách này và tác phẩm khác đã đem lại cho ông các giải thưởng và những bài điểm sách với đánh giá cao. Hiện nay ông vẫn gắn bó với những hoạt động môi sinh không mỏi mệt. Ngoài ra, tôi còn nhận ra BS Vinh là một nhà báo tài năng với khả năng gần như kỳ diệu để phát hiện các tư liệu và sự kiện khó kiếm. </p>
<p>Tác giả đã có mối liên hệ gần gũi với tất cả những nhân vật mà ông đề cập tới trong cuốn sách này, do đó các chân dung nhân vật của ông thường bao gồm cả trích dẫn những thư từ trong trao đổi riêng tư. Là một bác sĩ, tự nhiên là ông cũng quan tâm tới những vấn đề sức khỏe, đó cũng là một phần của những chân dung này. Những nhân vật được ông mô tả trong cuốn sách này bao gồm:</p>
<p><strong>Mặc Đỗ (1917 – 2015)</strong><br />
Nhà báo, nhà văn, viết truyện ngắn, và dịch giả, ông sinh ở Hà Nội trong một gia đình thấm đẫm Khổng giáo, nhưng cũng chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Tây phương. Ông di cư vào Nam năm 1954 và là một trong số người thành lập nhóm Quan Điểm và nhật báo Tự Do. Ngoài những tiểu thuyết và các truyện ngắn, ông đã dịch các tác phẩm của Hemingway, Fitzgerald, Mauriac, Tolstoy, Pasternak, và các tác giả khác. </p>
<p><strong>Như Phong (1923 – 2001)</strong><br />
Được mệnh danh là “nhà báo của các nhà báo,” Như Phong là nhà văn viết tiểu thuyết, là một chuyên gia về cộng sản Miền Bắc Việt Nam, và là một chiến lược gia / strategist hoạt động phía sau hậu trường như một cố vấn chính trị cho những chính khách. Tại Hoa Kỳ, ông quy tụ được nhiều bạn trẻ, gieo rắc cho họ ý niệm quan trọng về báo chí trong tương lai của Việt Nam. </p>
<p><strong>Võ Phiến (1925 – 2015)</strong><br />
Võ Phiến, nhà văn, viết tiểu luận, và lịch sử văn học, là một trong các cây viết chính của tạp chí Bách Khoa, Sài Gòn. Sau năm 1975, căn nhà của ông ở Los Angeles trở thành một trung tâm văn học lưu vong / expatriate literary culture. Ông đã viết nhiều bộ sách nghiên cứu về lịch sử văn học Miền Nam Việt Nam. Ông cũng là nhân vật chính trong cuốn sách <em>Nỗi Buồn Lưu Vong </em>của John Schafer. </p>
<p><strong>Linh Bảo (1926 –)</strong><br />
Là một trong số nhà văn nữ rất sớm của Việt Nam. Linh Bảo sống ở ngoại quốc nhiều năm, ở Quảng Đông, Thượng Hải. Là một nhà văn tài năng / gifted story teller, nhà báo tự do, nhà hoạt động nữ quyền, sách của bà có tính giễu cợt về những tiêu cực của đời sống. Văn phong của bà tàn nhẫn / merciless, quỷ quái / demonic và bất chấp / devil-may-care nhưng đồng thời cũng đầy những nỗi đau. <br />
<br />
<strong>Mai Thảo (1927 – 1998)</strong><br />
Là nhà văn, viết truyện ngắn, nhà thơ, và là chủ bút sáng lập tạp chí cấp tiến / avant-garde Sáng Tạo. Sau khi sang định cư tại Hoa Kỳ, ông sống rất giản dị trong một căn phòng nhỏ đơn sơ, đồng thời cũng là tòa soạn nơi ông làm lại tạp chí Văn hải ngoại. Ông là một trong số hiếm hoi văn nghệ sĩ không bị tù đày trong các trại cải tạo, với hai năm trời trốn lánh gần như tuyệt vọng ở Sài Gòn trước khi là thuyền nhân đào thoát được sang Mã Lai và rồi định cư ở Mỹ. </p>
<p><strong>Dương Nghiễm Mậu (1936 – 2016)</strong><br />
Là nhà văn, viết truyện ngắn, viết bình luận; ông sinh ở Hà Nội di cư cùng gia đình vào Nam năm 1954. Tác phẩm đầu tay, <em>Gia Tài của Mẹ</em> được giải văn học toàn quốc năm 1966. Ông nhập ngũ năm đó và làm phóng viên chiến trường. Sau 1975, ông bị đi tù cải tạo hai năm, ra tù năm 1977, làm thợ sơn mài để kiếm sống. Ông là một trong số ít tác giả chọn sống ở Việt Nam thay vì đi định cư ở hải ngoại. </p>
<p><strong>Nhật Tiến (1936 – 2020)</strong><br />
Là nhà văn, viết truyện ngắn và kịch với sức sáng tạo phong phú và đa dạng. Ông cũng là một <em>“tráng sinh lên đường”</em> trong Phong trào Hướng đạo Việt Nam, và trung thành với truyền thống này suốt đời. Là tác giả của hơn 20 cuốn sách, gồm nhiều tác phẩm liên hệ tới thế giới trẻ thơ và đặc biệt là những trẻ thơ bất hạnh. </p>
<p><strong>Nguyễn Đình Toàn (1936 –)</strong><br />
Là nhà thơ, nhà văn, viết truyện ngắn, viết ca khúc / songwriter, và chủ xướng chương trình phát thanh <em>“Nhạc Chủ đề”</em> rất có ảnh hưởng. Đa số các tiểu thuyết của ông được xuất hiện nhiều kỳ trên báo chí trước khi in thành sách, với nội dung thiên về bối cảnh thay vì là câu chuyện. Ông làm thơ, ảm đạm nhưng giàu cảm xúc. Bản nhạc <em>Tình khúc thứ nhất,</em> nhạc Vũ Thành An, thơ Nguyễn Đình Toàn với câu: <em>“Tình vui theo gió mây trôi, ý sầu mưa xuống đời.” </em></p>
<p><strong>Thanh Tâm Tuyền (1936 – 2006)</strong><br />
Sinh tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, ra Hà Nội học rồi di cư vào Nam năm 1954. Là một trong những cây viết chủ lực của tạp chí Sáng Tạo. Ông được biết đến và nổi tiếng sớm về thơ tự do / poésie libre, nhưng cuối đời ông lại trở về thể thơ truyền thống. Từ năm 1975 tới 1982, ông bị tù đày trong những trại cải tạo khắc nghiệt ở Miền Bắc Việt Nam. Là nhà thơ, ông còn là một nhà văn và viết kịch. </p>
<p><strong>Nguyễn Xuân Hoàng (1937 – 2014)</strong><br />
Là nhà văn, viết truyện ngắn, viết bình luận, chủ bút các tạp chí. Ông rất năng động ở Sài Gòn trước 1975. Sau những năm tù cải tạo, ông sang định cư tại Hoa Kỳ và là chủ bút cho một số tạp chí văn học ở hải ngoại. </p>
<p><strong>Hoàng Ngọc Biên (1938 – 2019) </strong><br />
Là một họa sĩ, nhà thơ, nhà văn, dịch giả, một học giả chuyên khảo về Proust, một nhạc sĩ; ông là nghệ sĩ rất đa tài, có nhiều kinh nghiệm và sinh hoạt rộng rãi trong giới báo chí. </p>
<p><strong>Đinh Cường (1939 – 2016)</strong><br />
Là một họa sĩ, nhà thơ, và là một giáo sư Mỹ thuật. Tới năm 2005, ông đã có hơn 24 cuộc triển lãm cá nhân và 20 cuộc triển lãm tập thể. Ông là tác giả của ba cuốn sách: một phê bình hội họa và hai tập thơ. <br />
<br />
<strong>Nghiêu Đề (1939 – 1998)</strong><br />
Là họa sĩ, nhà thơ, sinh quán tỉnh Quảng Ngãi. Là bạn thân thiết của tác giả tập Chân Dung này. Ông rất khó tính khi trình bày bìa cho các tác phẩm văn học. Tính khí rất lạ, và cao ngạo, chẳng hề quan tâm lưu giữ thành tích hoạt dộng nghệ thuật của bản thân. Cùng với gia đình sang định cư tại Hoa Kỳ, mất năm 1998 trước khi tới tuổi 60. </p>
<p><strong>Nguyên Khai (1940 –)</strong><br />
Là một họa sĩ chủ yếu vẽ sơn dầu. Bản chất dè dặt và trầm lắng/ contempletive. Trong một cuộc phỏng vấn, có lần ông phát biểu: “Hội họa không quay lưng lại thực tại, nhưng nó không minh họa thực tại. Hội họa cho chúng ta cái nhìn khác, cái nhìn phi thực tại, để từ đó những khả thể của chân thiện mỹ được biểu đạt.” </p>
<p><strong>Cao Xuân Huy (1947 – 2010)</strong><br />
Một chiến binh Thủy quân Lục chiến, nổi tiếng với hồi ký chiến tranh: <em>Tháng Ba Gãy Súng</em>, một cuốn sách độc nhất vô nhị, nồng nhiệt, sinh động và cảm xúc / expressive. Tác giả cuốn sách này (Ngô Thế Vinh) còn đề cập tới cuộc chiến đấu dũng cảm cùa Cao Xuân Huy với căn bệnh ung thư sắc tố mắt vào mấy năm cuối đời. </p>
<p><strong>Phùng Nguyễn (1950 – 2015)</strong><br />
Là chuyên viên điện toán, nhà văn, viết truyện ngắn, một bỉnh bút, và là cây viết nhật ký mạng / blogger. Tác giả cuốn sách này (Ngô Thế Vinh) rất quan tâm tới một khoảng thời gian mà Phùng Nguyễn không bao giờ nhắc tới nhưng lại có ảnh hưởng sâu đậm tới các sinh hoạt của Phùng Nguyễn sau này: đó là một giai đoạn hồi phục lâu dài do vết thương chân trầm trọng do một cuộc hành quân để lại. Ông còn là tác giả một trang mạng có tên là <em>“Rừng và Cây”</em>, đã xuất bản hai tuyển tập truyện ngắn: <em>Tháp Ký Ức</em> (1988) và <em>Đêm Oakland và những truyện khác</em> (2001).</p>
<p><strong>Phạm Duy (1921 – 2013)</strong><br />
Viết nhạc, viết lời ca / lyricist, nhà nhạc học, và viết hồi ký. Ông là người viết nhạc Việt Nam phong phú và tài năng nhất của thế kỷ qua. Chân dung Phạm Duy trong cuốn sách này khảo sát những hoạt động của ông qua nhiều thời kỳ cùng với những biến chuyển trong các mối liên hệ với bạn bè và các đồng sự / associate. </p>
<p><strong>Eric Henry (1943 – )</strong><br />
Là học giả người Mỹ chuyên về văn hóa Trung Hoa và Việt Nam, và là dịch giả của bộ sách này. Tác giả (Ngô Thế Vinh) quan tâm tới những kinh nghiệm đầu đời về Việt Nam của Henry và cả nỗ lực giúp vượt qua các trở ngại từ gia đình Phạm Duy để có được sự đồng thuận cho phép xuất bản bản dịch 4 tập hồi ký của Phạm Duy. </p>
<p><strong>Phạm Biểu Tâm (1913 – 1999)</strong><br />
Bác sĩ giải phẫu, giáo sư y khoa lỗi lạc và là Khoa trưởng Trường Đại học Y khoa. Tác giả (Ngô Thế Vinh) vẽ nên chân dung vị danh sư này với những đóng góp to lớn để xây dựng một nền y khoa hiện đại cho Việt Nam, đặc biệt trong những hoạt động của một nhà giáo dục không vị lợi và quảng đại / generosity. </p>
<p><strong>Phạm Hoàng Hộ (1929 – 2017)</strong><br />
Là một nhà khoa học-thực vật / scientist-botanist, là Viện trưởng-sáng lập Đại học Cần Thơ, là tác giả của nhiều bộ sách, và đáng kể nhất là bộ sách <em>Cây Cỏ Việt Nam. </em>Tác giả (Ngô Thế Vinh) viết về những bước diễn tiến của nhân vật như một nhà khoa học, kết hợp với những hoạt động không ngưng nghỉ của một nhà giáo dục và Viện trưởng một đại học, cùng với nỗ lực để vượt qua những hạn chế do chính quyền của Việt Nam sau này muốn áp đặt.</p>
<p>BS Vinh còn là tác giả của Tuyển Tập thứ hai với thêm 17 chân dung văn hóa nữa (bao gồm Nguyễn Tường Bách, Hứa Bảo Liên, Hoàng Tiến Bảo, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Dohamide, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư, Phan Nhật Nam, Võ Tòng Xuân, Trần Mộng Tú, and John Steinbeck). Tuyển Tập này được khép lại không phải bằng chân dung văn hóa của một nhân vật, mà là <em>Con Đường Sách</em> độc nhất ngay cạnh Bưu điện Trung ương Sài Gòn. Tôi hy vọng sẽ dịch xong và xuất bản sớm Tuyển Tập 2 Chân Dung này. </p>
<p><strong>Bộ Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa 1954-1975</strong> cho tới hiện nay, đã tổng hợp được chân dung sinh động của một nền văn hóa và đồng thời cũng là một sửa sai mạnh mẽ những nỗ lực của nhà nước cộng sản Việt Nam muốn phủ nhận tầm quan trọng của nền văn hóa ấy.<br />
</p>
<p><strong>ERIC HENRY</strong><br />
Chapel Hills, South Carolina </p>
<p>April 30, 2023 </p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-23065767571499110892023-04-28T19:48:00.004-07:002023-04-28T19:48:45.611-07:00THE CREATIVE WORLD OF SOUTH VIETNAM 1954 – 1975 TO THE PRESENT - Translator’s Introduction<div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong style="text-align: left;">ERIC HENRY</strong></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><strong style="text-align: left;"><br /></strong></div><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEggjIqMHvr4PYTz826Nja5lDb0-PVYoHNiZVC3OdgTFzlpIsUjRY04l1n65I2sxa6QyOVIPijh2Rs-xOkadp9gyTsqztFtx3cRDxCq_Bd44N3vcOvjpcNw4gSAhb_qqLUVZRtEsl4AS9XWlKj5ax-9GoExZTFdqpIgPrv-yVh9AsanXExah66iJoZOz/s800/eric_henry.jpg" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="553" data-original-width="800" height="442" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEggjIqMHvr4PYTz826Nja5lDb0-PVYoHNiZVC3OdgTFzlpIsUjRY04l1n65I2sxa6QyOVIPijh2Rs-xOkadp9gyTsqztFtx3cRDxCq_Bd44N3vcOvjpcNw4gSAhb_qqLUVZRtEsl4AS9XWlKj5ax-9GoExZTFdqpIgPrv-yVh9AsanXExah66iJoZOz/w640-h442/eric_henry.jpg" width="640" /></a></div><p>This book is a translation of a collection of personal, literary, and journalistic vignettes of Vietnamese individuals who have made notable contributions to literature, art, and science. It is a rich source of information on the social, cultural, and political history of South Vietnam, as well as the individual careers of its human subjects.<span></span></p><a name='more'></a><p></p>
<p> The people described for the most part came into prominence in the period 1954 – 1975. After the fall of the South to North Vietnamese forces in 1975, most of them were imprisoned for some number of years in communist reeducation camps after 1975. Later, in the 1980s, some of them made their way to the U.S., and most continued to be creatively active.</p>
<p> Võ Phiến, essayist, novelist, and literary historian, characterized the literature that arose under the southern Vietnamese republic as follows: <em>“</em><em>In the Vietnam of 1954 to 1975, a totally different type of literature arose.</em><em>Gay and sharp laughter spread freely over books and journals,</em><em>laughter that attacked mistaken deeds and perverse policies, and made fun of elements guilty of unworthy behavior</em><em>… T</em><em>he objects of attack were provincial or national leaders and power brokers. The sound of laughter ran freely and noisily across</em><em>all books and journals</em><em>. </em><em>At the same time, every view of human life, every faith, both fine and deluded, both noble and crazed,</em><em>existed as well; one could seek to understand, expound, and promulgate these beliefs,</em><em>just as one pleased.</em><em>At no time before or after 1954 – 1975 in the South can one find any literary tradition in our country that developed in such a free and open manner.</em><em>”</em></p>
<p>The regime that took over in 1975 sought to eradicate this legacy by criminalizing it and by physically destroying all remnants of it that could be collected. As a result, the most complete collections of the literature of Vietnam from this period are to be found, not in Vietnam, but in certain academic libraries in the U.S., such as those of Cornell University, Yale University and the University of Hawaii. </p>
<p>The author of this book, Dr. Ngô Thế Vinh, is himself one of the leading figures in the literary life that emerged in South Vietnam during the time of the Southern Republic, and was personally acquainted with all the figures he discusses. Dr. Vinh is a full-time internist and staff physician at Long Beach Medical Center in California, but he is also a tireless author, whose work includes novels, books of cultural commentary (such as this one), and investigative reporting. In particular, he has personally explored the entire length of the 4,800 km long Mekong River and has written two books that deal with the survival of the Mekong as a great river of the world, and with the livelihood of more than 70 million people living along the river and in the Mekong Delta. These and other books of his have been awarded many prizes and have attracted many appreciative reviews. He remains a committed and unrelenting environmentalist. In addition, I have found Mr. Vinh to be a supremely gifted journalist with a quasi-magical ability to track down obscure documents and facts. </p>
<p> The author had close friendships with all the individuals he discusses in this book, so his portraits often include excerpts from their correspondence. As a doctor, he was also naturally interested in their medical situations, so this too forms part of many of these portraits. The individuals he portrays in this volume are the following:</p>
<p> • Mặc Đỗ (1917 – 2015) </p>
<p> A journalist, novelist, short story writer, and translator, he was born in Hanoi to a family steeped in Confucian ways, but also amenable to western cultural influences. He emigrated to the South in 1954 and helped establish a literary group called Quan Điểm (“Viewpoint”) and the newspaper Tự Do (“Freedom”). In addition to his own novels and short stories, he translated works by Hemingway, Fitzgerald, Mauriac, Tolstoy, Pasternak, and others.</p>
<p> • Như Phong (1923 – 2001) </p>
<p> Characterized by the author as “a journalist’s journalist,” Như Phong was a novelist, an expert on communist affairs in North Vietnam, and a strategist who often worked behind the scenes as a political advisor to people in public life. In the U.S., he made many young friends to whom he expounded grand schemes concerning the role that journalism would play in the future of Vietnam. </p>
<p> • Võ Phiến (1925 – 2015), </p>
<p> An essayist, story writer, literary historian, and editor, he was one of the principal authors associated with Cyclopedia (Bách Khoa) magazine in Saigon. After 1975 his home in Los Angeles became a center of expatriate literary culture. He wrote several deeply researched books about the literary history of South Vietnam. He is also the subject of a study by John Schafer: <em>The Sadness of Exile</em><em>.</em> </p>
<p> • Linh Bảo (1926 –) </p>
<p> One of the earlier woman writers of Vietnam, Linh Bảo spent much of her life in other countries, including a number of years in Guangzhou and Hong Kong. A novelist, gifted story writer, freelance journalist, feminist activist, her books use ridicule to expose the negative aspects of life. Her style, the author says, was merciless, contrary, demonic, and devil-may-care, but at the same time full of pain. </p>
<p> • Mai Thảo (1927 – 1998) </p>
<p> He was a novelist, short story writer, poet, and the founder-editor of the avant-garde magazine <em>Creation</em> (<em>Sáng Tạo</em>). After emigration to the U.S, he lived a monastically simple existence in a single-room apаrtment, which was also his office—the place where he prepared each issue of the expatriate journal <em>Writing</em> (<em>Văn</em>). He is one of the few figures treated in this book who was not imprisoned in a reeducation camp. He instead spent two desperate years living in hiding in Saigon before escaping as a boat person to Malaysia and then to the U.S. </p>
<p> • Dương Nghiễm Mậu (1936 – 2016) </p>
<p> A novelist, short story writer, essayist, he was born in Hanoi and emigrated with his family to the south in 1954. His first novel, <em>Mother’s Legacy</em>, won the National Prize for Literature in 1966. He entered the army in that year and worked as a war correspondent. After imprisonment in a reeducation camp from 1975 to 1977, he did lacquer work for a living. He is one of the few authors discussed in this book who chose to remain in Vietnam rather than emigrate. </p>
<p> • Nhật Tiến (1936 – 2020) </p>
<p> A prolific and varied novelist, short story writer, playwright, Nhật Tiến identified strongly as a Rover Scout with the Vietnamese scout movement, and remained loyal to its traditions throughout his life. With more than twenty books to his name, his creations are particularly associated with childhood, and often deal with the suffering of children.</p>
<p> • Nguyễn Đình Toàn (1936 –) </p>
<p> He was a poet, novelist, short story writer, songwriter, and host of an influential radio program called “Themes in Music – Nhạc Chủ Đề.” Most of his novels appeared in parts in various journals before appearing as books, and devote more attention to atmosphere than to plot. He wrote the lyrics, obscure but suggestive, of “First Love Song” by the musician Vũ Thành An: “Joy chases the drifting, windblown clouds, / Gloom rains heavily into life.”<strong></strong></p>
<p> • Thanh Tâm Tuyền (1936 – 2006) </p>
<p> He was born in the city of Vinh in Nghệ An, went first to Hanoi, but then emigrated to Saigon in 1954. He was one of the principal contributors to the magazine <em>Creation</em> (<em>Sáng Tạo</em>). He gained early notoriety with his obscure and starkly original <em>po</em><em>ésie</em><em> libre</em>, but later in life took up more traditional forms. From 1975 to 1982 he was imprisoned in very harshly-run reeducation camps in North Vietnam. He was a novelist, fiction writer, and playwright, as well as a poet. </p>
<p> • Nguyễn Xuân Hoàng (1937 – 2014) </p>
<p> He was a novelist, short story writer, essayist, and editor. He was active in Saigon before 1975, and emigrated to the U.S. after years in reeducation camps and served as the editor of a number of Expatriate Vietnamese literary periodicals.</p>
<p> • Hoàng Ngọc Biên (1938 – 2019) </p>
<p> An artist, painter, poet, novelist, Proust scholar, translator, and musician, he is one of the most versatile and enterprising people discussed in this volume His works in many media are wide-ranging and highly experimental. </p>
<p> • Đinh Cường (1939 – 2016) </p>
<p> An artist, painter, poet, and art instructor. By 2005 he had had more than twenty-four solo exhibitions and twenty-one exhibitions with other artists. He is also the author of three books, one consisting of essays on art, and two consisting of poems. </p>
<p> • Nghiêu Đề (1939 – 1998) </p>
<p> An artist, painter, poet, originally from Quảng Ngãi Province. An old associate of the author’s, he was much in demand as a cover designer for literary works. Of a capricious and eccentric disposition, he never troubled to make a careful record of his activities. He moved with his family to the U.S. and died in 1998 before attaining his sixtieth birthday. </p>
<p> • Nguyên Khai (1940 –) </p>
<p> An artist most of whose work consists of oil paintings. His nature was reserved and contemplative. He once said in an interview, “Art does not turn its back on reality, but also does not illustrate reality. Art gives us another means of viewing things; a means of viewing things that are not realistic, so that the true nature of goodness and beauty can be expressed.” </p>
<p> • Cao Xuân Huy (1947 – 2010) </p>
<p> A combat marine and writer, best known for his war memoir: <em>My Gun Broke</em><em> in March</em>, a uniquely passionate, vivid, and expressive book. The author has much to say concerning this figure’s spirited battle against eye melanoma during his last years. </p>
<p> • Phùng Nguyễn (1950 – 2015) </p>
<p> An IT expert who was also a short story writer, essayist, and blogger. The author devotes much attention to a phase of his life that he never talked about but which nevertheless exerted a strong influence on his later activities: his prolonged recovery from a severe leg wound that he suffered in the course of a military operation. In addition to authoring a Blog entitled “Forest and Trees,” he published two collections of short stories: <em>Tower of Memory</em> (1988) and <em>Oakland Night and Other Stories</em> (2001)</p>
<p> • Phạm Duy (1921 – 2013) </p>
<p> A songwriter, lyricist, musicologist, and memoirist, he was the most prolific and distinguished of all the Vietnamese songwriters of the last century, of whom there have been a great many. The portrait in this volume examines his activities in several phases of his career and examines the evolving nature of his relations with his numerous friends and associates. </p>
<p> • Eric Henry (1943 – ) </p>
<p> Henry is an American scholar in Chinese and Vietnamese culture, and is the translator of the present volume. The author devotes much attention to Henry’s early experiences in Vietnam and to his recent efforts to overcome the refusal of Phạm Duy’s family to grant permission for the publication of his translation of Phạm Duy’s four volumes of memoirs. </p>
<p> • Phạm Biểu Tâm (1913 – 1999) </p>
<p> He was a doctor, surgeon, eminent medical professor, and university rector. The author’s portrait deals with this figure’s enormous contributions to the establishment of a modern medical system in Vietnam, paying particular attention to his activities as an educator and to his personal selflessness and generosity.</p>
<p> • Phạm Hoàng Hộ (1929 – 2017) </p>
<p> Dr. Hộ was a scientist-botanist, the founder-rector of Cần Thơ University, and the author of the multi-volume, exhaustively complete<em> Illustrated Flora of Vietnam</em>. His portrait in this volume examines his gradual evolution as a scientist, together with his unceasing activities as an educator and university rector and his efforts to overcome the limitations imposed on him by the current government of Vietnam.</p>
<p> Dr. Vinh is the author of a second book of cultural portraits dealing with seventeen additional figures (Nguyễn Tường Bách, Hứa Bảo Liên, Hoàng Tiến Bảo, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Dohamide, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư, Phan Nhật Nam, Võ Tòng Xuân, Trần Mộng Tú, and John Steinbeck). This volume concludes with a cultural portrait, not of a person, but of a uniquely organized bookselling district next to the central post office in Saigon. I hope to translate and publish this volume soon as “The Creative World of South Vietnam, Volume 2.” </p>
<p> Together, these two volumes of portraits amount to a vibrant portrait of a culture with much to offer to the world and at the same time offers a strong correction and refutation of the communist government of Vietnam’s attempts to deny the significance of this culture.</p>
<p><strong>ERIC HENRY</strong><br />
Chapel Hills, South Carolina </p>
<p>April 30, 2023 </p>Unknownnoreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-3617511810671193157.post-36386797129300191912023-04-23T01:34:00.004-07:002023-04-24T19:50:09.066-07:00Đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ gì với 1,166 km cao tốc sẽ xây trên mặt đất?<p style="text-align: center;"><strong>KS Phạm Phan Long, P.E.</strong></p>
<p><em>Một quy hoạch </em><em>vùng</em><em> cho hệ thống cao tốc đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước đã được phê duyệt, thực ra công trình </em><em>giao thông </em><em>này </em><em>đã</em><em> đến với dân chậm mất v</em><em>ài thập niên</em><em> vì quy hoạch này đã sớm phải là một trong những ưu tiên cao nhất quốc gia. Nông dân và ngư dân đã hàng chục năm qua chỉ chuyển vận sản phẩm bằng ghe thuyền trên sông rạch, giao thông bằng đường nhỏ chật hẹp, qua những con cầu </em><em>thiết kế kém</em><em> cỏi xập xình. Quy hoạch này sẽ có ích, đáp ứng mong đợi của dân cư và giúp nâng cao phát triển kinh tế và thu nhập cho họ. Tuy nhiên phương án kỹ thuật cho quy hoạch này không t</em><em>uân theo</em><em> quy luật tự nhiên, lịch trình thực hiện quá nhanh, cần nhiều vật liệu đã khan hiếm sẽ gây tác động xấu trên toàn bộ môi trường đất và nước dẫn đến những nguy cơ rất lớn cộng với gánh công nợ mà dân cư sẽ phải gánh chịu. Người viết tổng hợp những thông tin liên hệ đến quy hoạch này, tìm hiểu những nguy cơ và thách đố trước mắt, đề nghị vài giải pháp điều chỉnh ngay bây giờ, hy vọng giảm thiểu được tai hại khi tốn kém thấp và có thể tránh trước nguy cơ.<span></span></em></p><a name='more'></a><p></p>
<p><strong><em>Tầm quan trọng của Đồng bằng sông Cửu Long</em></strong><strong></strong><em>[1]</em></p>
<p>Theo trang một trang mạng trong nước,<em> Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng lớn nhất, phì nhiêu nhất ở Đông Nam Á và thế giới; là vùng sản xuất và xuất khẩu thực phẩm, thuỷ hải sản và trái cây lớn nhất của cả nước; đóng góp khoảng 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, gần 65% sản lượng thuỷ sản nuôi trồng, 60% lượng cá xuất khẩu và gần 70% các loại trái cây của cả nước; là khu vực có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và nhiều vườn cây, rừng cây rộng lớn, với 4 khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc gia, khu bảo tồn tự nhiên được công nhận là khu Ramsar của thế giới bao gồm: Vườn quốc gia Tràm Chim - Đồng Tháp; Vườn quốc gia Mũi Cà Mau; Vườn quốc gia U Minh Thượng - Kiên Giang và Làng Sen - Long An. </em></p>
<p><strong><em>Quy hoạch nâng cấp hệ thống giao thông yếu kém của ĐBSCL</em></strong><em> </em><em>[2] </em></p>
<p>Hệ thống giao thông là cơ sở hạ tầng thiết yếu cho ĐBSCL, nguồn cung cấp nông sản và thủy sản cho Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Chỉ gần đây quy hoạch xây dựng mạng lưới cao tốc ĐBSCL được phê duyệt. <em>Hệ thống giao thông của ĐBSCL, </em><em>theo một trang mạng khác, từ nhiều thập niên đã </em><em>không được phát triển đồng bộ với cả nước: So với tỉnh Quảng Ninh, dân số chỉ có 1,36 triệu, diện tích 6.272 km2, thế mà số km đường cao tốc của tỉnh Quảng Ninh lớn hơn 2 lần số km đường cao tốc của cả ĐBSCL, trong khi ĐBSCL có đến 13 tỉnh, thành phố với số dân lớn gấp 13 lần, diện tích lớn gấp 6 lần </em><em>[3].</em></p>
<p>Theo tin của Bộ GTVT,<em>quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 được phê duyệt ngày 1/9/2021, khu vực ĐBSCL được quy hoạch 6 tuyến cao tốc với tổng chiều dài khoảng 1.166km với quy mô 4 - 6 làn xe, gồm: 3 tuyến cao tốc trục dọc với tổng chiều dài 575km và 3 tuyến cao tốc trục ngang với chiều dài khoảng 591km</em><em> [4].</em></p>
<p></p><div class="separator" style="clear: both; text-align: center;"><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiFZgF0auiiDoz_a-_oGIZnSUk-1LFCnbnOsCPvadilzSQlr9WgyEtVbPc0Pd1Z6aE7Leyp3S7UztYe8vyaLYIcVg_8Xs_BQaNM_K9VGxL4mtQ64bHD9ezN-DyaNllj-c3CgMC29-Y5DklehnbBOFK0dbB02A_cuML0WP39do3O2tyHS7W3bBD8X_zn/s697/5437.png" imageanchor="1" style="margin-left: 1em; margin-right: 1em;"><img border="0" data-original-height="697" data-original-width="500" height="640" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiFZgF0auiiDoz_a-_oGIZnSUk-1LFCnbnOsCPvadilzSQlr9WgyEtVbPc0Pd1Z6aE7Leyp3S7UztYe8vyaLYIcVg_8Xs_BQaNM_K9VGxL4mtQ64bHD9ezN-DyaNllj-c3CgMC29-Y5DklehnbBOFK0dbB02A_cuML0WP39do3O2tyHS7W3bBD8X_zn/w461-h640/5437.png" width="461" /></a></div><p></p><p style="text-align: center;"><em>Hình 1: Quy hoạch cao tốc ĐBSCL, Vietnam Express [5]</em></p>
<p><strong><em>Phương án xây dựng đường cao tốc</em></strong><strong><em> và dư luận trong nước</em></strong></p>
<p><em>Đường cao tốc có thể được thiết kế theo một trong hai phương án, phương án một là đắp nền làm đường ngay trên mặt đất, phương án hai là</em><em> làm cầu cạn cao trên mặt đất.</em><em> Với kinh phí 4 tỉ USD cho 463 km cao tốc</em><em>, ta có thể tin chắc </em><em>bộ Giao thông Vận tải đã chọn phương án một, vì xây dựng cầu cạn phải cần kinh phí</em><em> cao </em><em>gấp hai đến gấp ba lần.</em></p>
<p>Gần đây GSTS Nguyễn Ngọc Trân đã khảo sát kinh nghiệm từ các công trình cao tốc đã có trong nước so sánh hai phương án và <em>kết luận phương án cầu cạn là có căn cơ</em><em> và bên vững </em>cho<em> ĐBSCL</em><em> [6a]</em><em>. </em>Nhận định của ông được sự ủng hộ của nhiều chuyên gia kinh nghiệm quy hoạch xây dựng đường giao thông cả trong và và ngoài nước [6b]. </p>
<p>"<em>GS Trân đã định vị tuyến cao tốc CT-CM trên ba nền: môi trường vật lý</em><em> [6c</em><em>], vùng ngập lũ các năm lũ lớn 2000 và 2011</em><em> [6d</em><em>] và sơ đồ sụt lún mặt đất khảo sát trong các năm 2009 – 2014</em><em> [6e</em><em>], từ đó cho thấy ngoài khó khăn thiếu cát để san lấp (mà việc tận nạo vét sông Tiền sông Hậu sẽ làm trầm trọng hơn nữa sự sạt lở và xâm thực đồng bằng trong khi nước biển lại đang dâng), phương án xây dựng cao tốc trên mặt đất đặt ra nhiều thách thức và hệ quả phải giải quyết. Một ưu việt không nhỏ của giải pháp xây dựng cao tốc trên cao (cầu cạn) là nó cho phép giải quyết cùng một lúc nhiều thách thức và hệ lụy cần tránh."</em></p>
<p><strong>H</strong><strong>ệ </strong><strong>thống cao tốc </strong><strong>theo Hình 1 đặt </strong><strong>nằm trên mặt đất sẽ cắt nhỏ toàn bộ đồng lũ</strong><strong> ĐBSCL r</strong><strong>a nhiều mảng, tấn công trực tiếp vào</strong><strong> môi trường n</strong><strong>ước</strong><strong>, tài nguyên c</strong><strong>ốt</strong><strong> lõi của ĐBSCL, sẽ </strong><strong>biến đổi dòng chảy tự nhiên thành phản tự nhiên</strong><strong>. Hệ thống cao tốc</strong><strong> trên mặt đất </strong><strong>này theo chỉ thị phải thực hiện nhanh chóng, bất chấp p</strong><strong>hương án</strong><strong> thiết kế đ</strong><strong>i ngược với</strong><strong> tôn chỉ</strong><strong> “<em>tôn trọng quy luật tự nhiên</em>” của Nghị quyết 120, của Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long và cả Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long vừa phê duyệt.</strong><strong> </strong></p>
<p><strong><em>Trữ lượng cát ĐBSCL sẽ cạn kiệt trước khi 1166 km cao tốc hoàn tất</em></strong></p>
<p><em>Theo thông tin của </em><em>một </em><em>trang mạng baochinhphu.vn</em><em> [7]:</em><em>Từ nay đến năm 2025 các dự án cao tốc sẽ triển khai đồng loạt, nhu cầu vật liệu cát là rất lớn, khoảng 47,8 triệu m3 và chủ yếu tập trung trong năm 2023 (17,8 triệu m3), năm 2024 (28,4 triệu m3). </em></p>
<p><em>Các tỉnh ĐBSCL đã cấp phép 66 giấy phép khai thác với tổng trữ lượng khoảng 80 triệu m3, công suất khai thác khoảng 17 triệu m3/năm (trong đó cát san lấp là 14 triệu m3). Tuy nhiên, trữ lượng cát san lấp hiện tại chỉ còn khoảng 37 triệu m3.</em></p>
<p><em>Trong năm 2022, tại các tỉnh đang khai thác tại 24 mỏ có chất lượng đáp ứng yêu cầu của dự án, nếu tăng công suất khai thác ở các mỏ đang hoạt động thêm 50% trong 2 năm và dành toàn bộ khối lượng tăng thêm (khoảng 6,17 triệu m3) cũng chưa đáp ứng nhu cầu các dự án.</em></p>
<p>Với 475 kilo mét khối lưu lượng hàng năm, phù sa từ sông Mekong đã bị giam lại ở hàng chục hồ thủy điện trên dòng chính và hàng trăm hồ trên dòng phụ ở thượng nguồn. Mekong không còn là dòng nước no phù sa mà bây giờ đối với ĐBSCL là dòng nước đói. Theo báo cáo khoa học của TS Đoàn Văn Bình, Kyoto University: <em>Trầm tích đã giảm 74,1% trong ĐBSCL; 166,7 ± 33,3 triệu tấn/năm trong giai đoạn tiền đập và </em><em>giảm còn </em><em>43,1 triệu tấn/năm vào năm 2012-2015, với 40,2%</em><em> (lượng sút giảm) g</em><em>ây ra bởi sáu đập</em><em> (Trung Quốc xây) n</em><em>gang dòng chính</em><em> [8]?</em></p>
<p><strong>Song song với </strong><strong>nạn n</strong><strong>ước đói ăn đất</strong><strong> gây xói lở s</strong><strong>ụt lún trên bờ, lòng sông Tiền và Hậu </strong><strong>còn </strong><strong>chịu nạn khai thác cát</strong><strong>, lấy đi </strong><strong>nhiều hơn lượng trầm tích</strong><strong> n</strong><strong>hận được. Việc bất chấp hai hiện trạng khẩn trương trên mà vẫn cho phép</strong><strong> thêm 5</strong><strong>0% tăng tốc khai thác cát</strong><strong> là cho đ</strong><strong>âm thủng lòng sông mẹ để san đắp</strong><strong> nền c</strong><strong>ác con đường. Như thế </strong><strong>là vi phạm tôn chỉ “</strong><strong><em>bảo vệ tài nguyên thiên nhiên</em></strong><strong>”</strong><strong> và </strong><strong>“</strong><strong><em>tôn trọng quy luật tự nhiên</em></strong><strong>” trong quy pháp.</strong></p>
<p><strong>Tác động môi trường</strong> [8a]</p>
<p>Xây dựng một hệ thống cao tốc trên khắp cả đồng bằng sẽ cần có nghiên cứu tác động môi trường thật nghiêm túc. Theo hướng dẫn của EPA Mỹ: Sự phân mảnh do phát triển đường cao tốc tác động đến khả năng kết nối của môi trường sống và biến đổi các chu trình dinh dưỡng (Các bon, oxy, tuần hoàn nước, phốt pho và lưu huỳnh) và lộ trình của các giống loài và kết nối quần thể. </p>
<p>Công trình cao tốc sẽ ức chế nước mưa và sự phân bố thủy triều, thay đổi mô hình hoạt động của nước, ức chế sự di chuyển của động vật, thay đổi năng suất sinh học, và thông lượng dinh dưỡng.</p>
<p>Đánh giá các tác động ở cấp độ hệ sinh thái sẽ giúp ý thức rõ bảo vệ các loài động vật, thực vật và vi sinh vật. Các phân tích sinh thái nên xem xét cả các yếu tố gây ra sự phá hủy và suy thoái môi trường sống để mang vào kế hoạch biện pháp bảo vệ hệ sinh thái.</p>
<p><strong>Thiếu</strong> <strong>tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và cao t</strong><strong>rình của cao</strong><strong> tốc.</strong></p>
<p>Bảo vệ môi trường có lẽ không thực sự được xem là quốc sách trong các công trình giao thông. Thật vậy, Tiêu chuẩn quốc gia CCS 42: 2022/TCDBVN ĐƯỜNG Ô TÔ CAO TÓC không có quy định cho cao trình mặt đường [8b], đây là một thiếu sót cơ bản không thể chấp nhận. Thậm chí toàn bộ tiêu chuẩn quốc gia chỉ có một điều khoản với ba dòng về môi sinh như sau:</p>
<p><em>10.6.3 </em><em>Trong thiết kế phân kỳ đường cao tốc vẫn phải điều tra nghiên cứu kỹ thực tế để bố trí các đường bên cầu vượt hầm chui thích hợp nhằm khắc phục tác dụng chia cắt của đường cao tốc đến môi trường xã hội và dân sinh của dân cư hai bên.</em></p>
<p>Cao trình mặt đường cao tốc theo tiêu chuẩn Mekong River Commission, MRC là 0,5 m trên mực nước lụt cao nhất lịch sử [9]. Nhưng với ĐBSCL, dưới trọng lượng khổng lồ của 1.166 km cao tốc, dùng tiêu chuẩn này sẽ vấp sai lầm, vì MRC không tiên liệu nền đất ĐBSCL là đất mềm, đang lún và tương lai đất sẽ vẫn còn lún, biển vẫn tiếp tục dâng và mức nước ngầm đang và sẽ còn sút giảm với chiều hướng nhanh hơn. </p>
<p><strong><em>ĐBSCL hiện nằm</em></strong><strong><em> rất s</em></strong><strong><em>át mực nước biển </em></strong></p>
<p>Theo báo Tài Nguyên Môi trường<em>, Nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy lợi cũng chỉ ra rằng, ĐBSCL đang phát triển nóng quá mức, chú trọng xây dựng các đô thị, các công trình, đường bê tông… làm tăng tải trọng lên nền đất, trong khi nền đất lại yếu, dẫn đến tình trạng ĐBSCL bị sụt lún [10].</em></p>
<p>Theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia <em>Đại học Utrecht (Hà Lan) trên Tạp chí khoa học Nature Communications, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam chỉ còn cao hơn mực nước biển 0,8m, chênh lệch gần 2m so với các dữ liệu vệ tinh thường được trích dẫn (2,6m) trước đó</em><em> [11,12].</em></p>
<p><strong><em>ĐBSCL sẽ</em></strong><strong><em> chìm </em></strong><strong><em>dưới mực nước biển </em></strong></p>
<p>Theo nhiều chuyên gia trong nước [13, 14] và báo cáo của WWF - Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên<em> “ĐBSCL </em><em>của Việt Nam có thể sẽ nằm dưới mực nước vào cuối thế kỷ này nếu không có các hành động khẩn cấp trên toàn lưu vực sông. Tiếp tục phát triển như cách thức hiện tại có thể khiến 90% diện tích vùng trọng điểm kinh tế nông nghiệp của Việt Nam, nơi sinh sống của hơn 17 triệu người bị nhấn chìm, kèm theo các tác động to lớn ở cấp độ Quốc gia và toàn cầu</em><em>”[15].</em></p>
<p><strong><em>Một số giải pháp</em></strong><strong><em> bảo vệ hệ thống cao tốc và Đ</em></strong><strong><em>BSCL</em></strong><strong></strong></p>
<ul type="circle">
<li><strong><em>Hệ thống cao tốc thực hiện cần có căn cơ</em></strong><strong><em> thông minh </em></strong><strong><em>và bền vững theo kiến nghị của GSTS Nguyễn Ngọc Trân,</em></strong><strong><em> vì thế cần </em></strong><strong><em>tăng kinh phí cần thiết và lịch trình hợp lý</em></strong><strong><em> theo chiến lược tổng hợp tối ưu c</em></strong><strong><em>ả hai phương án, cao tốc trên mặt lẫn phương án cao tốc cầu cạn</em></strong><strong><em> bảo vệ</em></strong><strong><em> quy luật tự nhiên</em></strong><strong><em> của </em></strong><strong><em>đồng bằng. Cầu cạn sẽ tốn kém hơn nhưng giảm thiểu phần lớn và thậm chí tránh được tất cả các tác động xấu của phương án một.</em></strong><strong></strong></li><br />
<li><strong><em>Thực hiện việc thu gom xử lý và ngăn ngừa nước thải và rác thải gây ô nhiễm sông rạch theo quy hoạch vùng ĐBSCL.</em></strong><strong><em> Đây là giải pháp hữu hiệu bảo vệ nước mặt, nước ngầm và giảm cả đất lún trước khi ĐBSCL chìm dưới mực nước biển, thêm vào ta có thể bảo vệ hệ thống cao tốc khỏi chìm dưới lũ lụt.</em></strong></li><br />
<li><strong><em>Lập kế hoạch dùng năng lượng gió và mặt trời cho máy bơm tồn trữ nước ngầm để sử dụng (ASR aquifer storage and recovery).</em></strong><strong><em> Hai thí điểm A</em></strong><strong><em>SR đã được</em></strong><strong><em> chuyên gia Hà Lan và Việt Nam t</em></strong><strong><em>h</em></strong><strong><em>ử nghiệm tại Trà Vinh. ASR kiểm soát được chất lượng nước với tiềm năng nhân rộng [16]. ASR </em></strong><strong><em>là giải pháp đã được áp dụng thành công ở nhiều lưu vực của thế giới và hiện đang được tận dụng ở California để đối phó</em></strong><strong><em> với 20 năm h</em></strong><strong><em>ạ</em></strong><strong><em>n hán. Chọn địa điểm và lịch trình n</em></strong><strong><em>guồn </em></strong><strong><em>nước mặt có thể </em></strong><strong><em>kiểm soát chất lượng được</em></strong><strong><em>,</em></strong><strong><em> rồi bơm xuống</em></strong><strong><em> dự</em></strong><strong><em> trữ ở các túi nước ngầm</em></strong><strong><em>,</em></strong><strong><em> sau lấy lại để dùng sẽ ngăn được mặn xâm lấn, bảo vệ đất khỏi lún </em></strong><strong><em>dưới nền cao tốc </em></strong><strong><em>và</em></strong><strong></strong><strong><em>an ninh nguồn nước. ASR kể cả ở quy mô lớn, gần như khô</em></strong><strong><em>ng cần mặt bằng, </em></strong><strong><em>sử dụng ít thiết bị và</em></strong><strong><em> dùng ít </em></strong><strong><em>năng lượng nên</em></strong><strong><em> độ</em></strong><strong><em> khả thi kinh tế cao hơn các nhà máy lọc nước thải hay nước biển.</em></strong></li>
</ul>
<p><strong><em>Chúng ta đang đứng trước một công trình xây dựng sẽ biến đổi toàn diện ĐBSCL và ảnh hưởng có tốt có xấu vào vận mệnh của 18 triệu người, chúng ta sẽ mang nợ thế hệ sau nếu bây </em></strong><strong><em>giờ không đứng ra đặt câu hỏi </em></strong><strong><em>: Làm sao</em></strong><strong><em> chuyên gia cố vấn viết b</em></strong><strong><em>áo cáo ĐTM để </em></strong><strong><em>vận </em></strong><strong><em>động</em></strong><strong></strong><strong><em>hàng chục tỉ USD đầu tư từ ngoài cho</em></strong><strong><em> q</em></strong><strong><em>uy hoạch </em></strong><strong><em>cao tốc </em></strong><strong><em>này</em></strong><strong><em> nếu không đối phó được các nguy cơ của phương án? </em></strong><strong><em>Làm sao để dân</em></strong><strong><em> chấp nhận những món nợ có thể chục tỉ USD đó, nhất là làm sao dân t</em></strong><strong><em>in tưởng vào chính quyền nếu các quy hoạch quốc gia không được tuân thủ? </em></strong></p>
<p>California 19 tháng 4 2023. </p>
<p><strong>KS Phạm Phan Long, P.E.</strong><br />
Chairman, Viet Ecology Foundation <br />
Thiết kế hệ thống giải nhiệt cho dự án hạ tầng Thế kỷ GWR Advanced Water Treatment Plant<br />
Principle in Charge các dự án công nghệ cao cho ASML, Abbot Lab, Genentech, ST Microelectronics, Kaiser Permanente, Solar Turbines, Hughes Research Laboratory, OCWD, UCSD, IVC, RCC, SBC Colleges.<br />
<em>Highest Value Saving Award, Hughes Aircraft Company</em><br />
<em>Engineer of the Year, AIPE, SanDiego, California</em><br />
<em>Industrial Water C</em><em>onservation </em><em>Award</em><em>, San Diego County Water Authority</em><br />
<em>Facilities Management Excellence Award</em><em>,</em><em> AIPE,</em><em> USA</em></p>
<p><strong><em>Nguồn tham khảo </em></strong></p>
<ul style="list-style-type: none; margin-left: -30px;">
<li>[1] <a href="https://dangcongsan.vn/thoi-su/phat-huy-tiem-nang-loi-the-cua-vung-dong-bang-song-cuu-long-608580.html">https://dangcongsan.vn/thoi-su/phat-huy-tiem-nang-loi-the-cua-vung-dong-bang-song-cuu-long-608580.html</a></li><br />
<li>[2] <a href="https://24hmoney.vn/news/co-vo-ly-khong-khi-ma-so-km-duong-cao-toc-cua-ca-vung-dbscl-chi-bang-mot-nua-tinh-quang-ninh-c30a1803767.html">https://24hmoney.vn/news/co-vo-ly-khong-khi-ma-so-km-duong-cao-toc-cua-ca-vung-dbscl-chi-bang-mot-nua-tinh-quang-ninh-c30a1803767.html</a></li><br />
<li>[3] <a href="https://24hmoney.vn/news/co-vo-ly-khong-khi-ma-so-km-duong-cao-toc-cua-ca-vung-dbscl-chi-bang-mot-nua-tinh-quang-ninh-c30a1803767.html">https://24hmoney.vn/news/co-vo-ly-khong-khi-ma-so-km-duong-cao-toc-cua-ca-vung-dbscl-chi-bang-mot-nua-tinh-quang-ninh-c30a1803767.html</a></li><br />
<li>[4] <a href="https://tapchigiaothong.vn/toan-canh-8-du-an-cao-toc-dang-trien-khai-o-dong-bang-song-cuu-long-18323013010363101.htm">https://tapchigiaothong.vn/toan-canh-8-du-an-cao-toc-dang-trien-khai-o-dong-bang-song-cuu-long-18323013010363101.htm</a></li><br />
<li>[5] https://vnexpress.net/quy-hoach-cao-toc-o-dong-bang-song-cuu-long-5-nam-toi-4199890.html</li><br />
<li value="6a">[6a] <a href="https://viettimes.vn/xay-dung-cao-toc-can-tho-ca-mau-tren-cao-la-co-co-so-va-kha-thi-post165548.html?zarsrc=30&utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo">https://viettimes.vn/xay-dung-cao-toc-can-tho-ca-mau-tren-cao-la-co-co-so-va-kha-thi-post165548.html?zarsrc=30&utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo</a></li><br />
<li>[6b] <a href="https://viettimes.vn/vi-duong-cao-toc-can-tho-ca-mau-can-co-va-ben-vung-post165310.html">https://viettimes.vn/vi-duong-cao-toc-can-tho-ca-mau-can-co-va-ben-vung-post165310.html</a></li><br />
<li>[6c] Đồng bằng sông Cửu Long: Tài nguyên - môi trường - phát triển (<a href="http://vnulib.edu.vn">vnulib.edu.vn</a>)</li><br />
<li>[6d] Mekong River Commission, 2011, Tech-No36-Flood-Situation-Report2011.pdf (<a href="http://mrcmekong.org">mrcmekong.org</a>)</li><br />
<li>[6e] Laura E. Erban et al. 2014, Groundwater extraction, land subsidence, and sea-level rise in the Mekong Delta, Vietnam, Environ. Res. Lett. 9 (2014) 084010(6pp), doi:10.1088/1748-9326/9/8/084010</li><br />
<li>[7] <a href="https://baochinhphu.vn/bao-dam-du-nguon-vat-lieu-dap-nen-duong-theo-tien-do-cac-du-an-cao-toc-102230314211649762.htm">https://baochinhphu.vn/bao-dam-du-nguon-vat-lieu-dap-nen-duong-theo-tien-do-cac-du-an-cao-toc-102230314211649762.htm</a></li><br />
<li>[8] <a href="https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0169555X19305021">https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0169555X19305021</a></li><br />
<li>[8a] <a href="https://www.epa.gov/sites/default/files/2014-08/documents/ecological-impacts-highway-development-pg_0.pdf">https://www.epa.gov/sites/default/files/2014-08/documents/ecological-impacts-highway-development-pg_0.pdf</a></li><br />
<li>[8b] <a href="https://drvn.gov.vn/wp-content/uploads/2022/10/TCCS-42-2022-Duong-oto-cao-toc-TK-TCGT-trong-giai-doan-phan-ky-DTXD-Ban-hanh-SC.pdf">https://drvn.gov.vn/wp-content/uploads/2022/10/TCCS-42-2022-Duong-oto-cao-toc-TK-TCGT-trong-giai-doan-phan-ky-DTXD-Ban-hanh-SC.pdf</a></li><br />
<li>[9] <a href="https://www.iwlearn.net/resolveuid/dc7044454d74786c8efc71128bb3fa5f">https://www.iwlearn.net/resolveuid/dc7044454d74786c8efc71128bb3fa5f</a></li><br />
<li>[10] <a href="https://vtc.vn/60-nam-nua-2-3-dien-tich-dong-bang-song-cuu-long-chim-trong-bien-nuoc-chuyen-gia-canh-bao-the-nao-ar497086.html">https://vtc.vn/60-nam-nua-2-3-dien-tich-dong-bang-song-cuu-long-chim-trong-bien-nuoc-chuyen-gia-canh-bao-the-nao-ar497086.html</a></li><br />
<li>[11] <a href="https://www.nature.com/articles/s41467-019-11602-1">https://www.nature.com/articles/s41467-019-11602-1</a></li><br />
<li>[12] <a href="https://baotainguyenmoitruong.vn/dong-bang-song-cuu-long-cao-hon-muc-nuoc-bien-0-8m-294479.html">https://baotainguyenmoitruong.vn/dong-bang-song-cuu-long-cao-hon-muc-nuoc-bien-0-8m-294479.html</a></li><br />
<li>[13] <a href="https://nongnghiep.vn/ths-nguyen-huu-thien-dbscl-dang-bi-chim-rat-nhanh-d203559.html">https://nongnghiep.vn/ths-nguyen-huu-thien-dbscl-dang-bi-chim-rat-nhanh-d203559.html</a> </li><br />
<li>[14] <a href="https://vtc.vn/60-nam-nua-2-3-dien-tich-dong-bang-song-cuu-long-chim-trong-bien-nuoc-chuyen-gia-canh-bao-the-nao-ar497086.html">https://vtc.vn/60-nam-nua-2-3-dien-tich-dong-bang-song-cuu-long-chim-trong-bien-nuoc-chuyen-gia-canh-bao-the-nao-ar497086.html</a></li><br />
<li>[15] <a href="https://www.wwf.or.th/?373737/Liu-ng-bng-song-Cu-Long-co-thoat-khi-nguy-c-b-nhn-chim">https://www.wwf.or.th/?373737/Liu-ng-bng-song-Cu-Long-co-thoat-khi-nguy-c-b-nhn-chim</a> </li><br />
<li>[16] <a href="https://cms.deltares.nl/assets/common/downloads/FAME_Freshwater_Availability_in_the_Mekong_delta_3rd_workshop_20211221-1.pdf">https://cms.deltares.nl/assets/common/downloads/FAME_Freshwater_Availability_in_the_Mekong_delta_3rd_workshop_20211221-1.pdf</a></li><br />
</ul>Unknownnoreply@blogger.com