Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

NGƠ NGÁC BÊN DÒNG SÔNG CỬU LONG _ Phạm Cao Hoàng

 gửi anh Ngô Thế Vinh



 

rồi những người đi cũng trở về

ngậm ngùi ghé lại bến sông xưa

chuyến phà năm cũ không còn nữa

và bóng người xưa đã mịt mờ

 

chỉ còn những dấu chân năm tháng

của Chín Con Rồng ở phía Nam

chỉ còn những cảnh đời lang bạt

ngơ ngác bên dòng sông Cửu Long

 

chỉ còn tiếng thì thầm than thở

ngửa mặt nhìn lên phía thượng nguồn

bây giờ nước mặn sâu trong đất

đất nứt, vườn khô, thôn xóm buồn

 

rồi những người đi cũng trở về

chạnh lòng thương chín nhánh sông xưa

mây bay mây vẫn còn bay mãi

đời vẫn bơ phờ vẫn xác xơ

 

PHẠM CAO HOÀNG

Virginia, 12.2023


Bài thơ này đã được nhạc sĩ Nguyễn Quyết Thắng phổ thành ca khúc. Bấm vào đường dẫn dưới đây để nghe ca sĩ Ngọc Quy trình bày ca khúc này:


NGƠ NGÁC BÊN DÒNG SÔNG CỬU LONG - cs Ngọc Quy - nhạc Ng Quyết Thắng - thơ Phạm Cao Hoàng .

 

Thứ Năm, 20 tháng 3, 2025

THẾ GIỚI SÁNG TẠO MIỀN NAM VIỆT NAM 1954 – 1975 ĐẾN NAY _ Eric Henry

 

Giới thiệu của người dịch

 

 

Cuốn sách này là bản dịch của một tập hợp bài viết về các nhân vật, văn học và báo chí của các cá nhân người Việt đã có những đóng góp đáng kể cho văn học, nghệ thuật và khoa học. Đây là một nguồn thông tin phong phú về lịch sử xã hội, văn hóa và chính trị của Miền Nam Việt Nam, cũng như sự nghiệp cá nhân trong lãnh vực nhân văn. 

 

Những nhân vật được mô tả phần lớn đã nổi tiếng trong thời kỳ 1954 - 1975. Sau khi Miền Nam sụp đổ vào tay Bắc quân năm 1975, hầu hết trong số họ đã bị giam cầm một số năm trong các trại cải tạo cộng sản. Sau đó, vào những năm 1980, một số đã đến Hoa Kỳ và hầu hết vẫn tiếp tục hoạt động sáng tạo.

 

Võ Phiến (1925 - 2015), nhà tiểu luận, tiểu thuyết gia và sử gia văn học, đã mô tả nền văn học phát sinh dưới thời Việt Nam Cộng Hòa như sau: “Ở Miền Nam Việt Nam thời 1954-75, giữa hoàn cảnh chiến tranh, đã phát triển một nền văn nghệ khác hẳn. Trên sách báo tha hồ nở rộ những nụ cười sảng khoái, công kích điều sai chuyện quấy, đùa riễu những phần tử xấu xa. Phần tử ấy không thuộc hạng Lý Toét Xã Xệ. Không hề có nhân vật nào thấp bé như thế bị bêu riếu trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu một tỉnh cho đến các vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm ran khắp cùng trên mặt sách báo... Mặt khác, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng, hay có dở có, cao thâm có mà ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, tha hồ được tìm hiểu, trình bày, quảng bá. Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy.”

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2025

The Creative World of South Vietnam 1954 - 1975 To The Present _ ERIC HENRY


Translator’s Introduction

 


 

This book is a translation of a collection of personal, literary, and journalistic vignettes of Vietnamese individuals who have made notable contributions to literature, art, and science. It is a rich source of information on the social, cultural, and political history of South Vietnam, as well as the individual careers of its human subjects. 

The people described for the most part came into prominence in the period 1954 – 1975. After the fall of the South to North Vietnamese forces in 1975, most of them were imprisoned for some number of years in communist reeducation camps after 1975. Later, in the 1980s, some of them made their way to the U.S., and most continued to be creatively active.

Võ Phiến, essayist, novelist, and literary historian, characterized the literature that arose under the southern Vietnamese republic as follows: In the Vietnam of 1954 to 1975, a totally different type of literature arose. Gay and sharp laughter spread freely over books and journals, laughter that attacked mistaken deeds and perverse policies, and made fun of elements guilty of unworthy behavior… The objects of attack were provincial or national leaders and power brokers. The sound of laughter ran freely and noisily across all books and journalsAt the same time, every view of human life, every faith, both fine and deluded, both noble and crazed, existed as well; one could seek to understand, expound, and promulgate these beliefs, just as one pleased. At no time before or after 1954 – 1975 in the South can one find any literary tradition in our country that developed in such a free and open manner.

 

The regime that took over in 1975 sought to eradicate this legacy by criminalizing it and by physically destroying all remnants of it that could be collected. As a result, the most complete collections of the literature of Vietnam from this period are to be found, not in Vietnam, but in certain academic libraries in the U.S., such as those of Cornell University, Yale University and the University of Hawaii

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2025

A SMALL DREAM FOR THE YEAR 2000 _ Ngô Thế Vinh

A Small Dream for the Year 2000 was written 30 years ago (January 1995), and is now included in the anthology The Colors of April: Fiction on  The Vietnam War’s Legacy 50 Years Later. This title  will be released on March 25, 2025 on Amazon and bookstores.


The man, a farmer, was formerly an ARVN soldier.  Twenty years had passed since his days in the military, and he was now a middle-aged person.  Though not yet fifty, he had been made pallid, old and decrepit by a life of unrewarding hard labor.  He had lost his left foot, ironically after his military service had terminated, when stepping on a mine right in his own rice field.  One did not have to be a doctor to know that his body hosted various illnesses and diseases: malnutrition, chronic malaria, and anemia.  Whatever energy and dignity he retained was revealed in his bright though rather sad eyes, eyes that always looked directly at those of the person he talked to.  Today, he came to this field dispensary for another kind of complaint.  It concerned a bluish-black lesion on his back which was not painful, but had been oozing an ichorous discharge for a long while.  He had sought various treatments, but found no hope of a cure.  First, he had been made to wait in a district's health service station where a communist doctor had eventually given him a few Western medicinal tablets; then a doctor of traditional medicine had treated him in turn with an herbal concoction and acupuncture.  Despite all that, the disease refused to go away, even as he was steadily emaciating.  Hearing that a group of healthcare workers from overseas had come to offer volunteer services, he decided to come to them at this dispensary and try his luck.  With good fortune, he hoped, he might even be able to again meet the doctor he used to know – the chief surgeon of his Airborne Ranger Battalion in the past, who presently lived and worked in America.  But it turned out that all the faces he saw were young and unfamiliar.  Nonetheless, he showed them his back for examination.  From the team of young doctors came an audible gasp of surprise.  The heart of Toan, the team leader, seemed to miss a beat.  Without the necessity of engaging in complicated diagnostic procedures, he immediately recognized a form of malignant melanoma, which certainly would have had metastases spread to other parts of the body.  The disease, of course, could have been cured if discovered earlier.  Unfortunately, this present case, being at an advanced stage, could not be treated even with the most elaborate and sophisticated medical technologies available in the US.  It was not the patient, but the young doctor who expressed sadness: "You've come too late; this disease otherwise could have been treated successfully."  Betraying no embarrassment, the soldier-turned-farmer patient looked directly at the young doctor, his eyes darkened with anger and sternness: "I've come too late, you say? It’s you doctors who have come late, whereas myself, like all my compatriots, have been here forever."  Flatly refusing to wait for anything else from the group of unknown doctors, the man turned his back on them and walked out, limping along on his bamboo crutches, his eyes looking straight ahead, accepting his miserable lot with the same courage he had shown as a soldier in a time past. 

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2025

GIẤC MỘNG CON NĂM 2000 _ Ngô Thế Vinh

Giấc Mộng Con Năm 2000 được viết cách đây 30 năm (01.1995), nay được chọn đưa vào tuyển tập The Colors of April với nhiều người viết, như “Di Sản của Chiến Tranh Việt Nam 50 Năm Sau.” Sách sẽ được chính thức phát hành vào ngày 25 tháng 3 năm 2025 trên Amazon và các nhà sách.   




CÂU CHUYỆN CUỐI NĂM.  Người đàn ông nông dân ấy gốc lính cũ, hai mươi năm sau đã bước vào tuổi trung niên, chưa tới tuổi năm mươi nhưng cuộc sống lao động lam lũ khiến anh ta trông xanh xao và già xọm. Anh mất một bàn chân trái khi đã mãn lính do đạp phải mìn ngay trên ruộng nhà. Không cần là bác sĩ cũng biết là anh ta mang trên người đủ thứ bệnh tật: thiếu ăn suy dinh dưỡng, sốt rét kinh niên và thiếu máu. Tất cả sinh lực và nhân cách của anh là nơi đôi mắt sáng tuy hơi buồn nhưng luôn luôn nhìn thẳng vào mặt người đối diện. Hôm nay anh tới đây vì một lý do khác. Một mảng đen bầm nơi lưng không đau rỉ nước vàng từ bấy lâu, trị cách gì cũng không hết. Chầu trực lên trạm y tế huyện được y sĩ cách mạng cho ít viên thuốc tây, rồi đến thầy đông y cho bốc thuốc nam và cả châm cứu nữa mà bệnh thì vẫn không chuyển trong khi người anh cứ gầy rốc ra. Nay nghe có đoàn y tế thiện nguyện ở ngoại quốc về, anh cũng muốn tới thử coi, biết đâu anh lại được gặp ông thầy cũ - người y sĩ trưởng của anh năm nào. Và rồi anh chỉ gặp toàn những khuôn mặt trẻ lạ, nhưng anh vẫn cứ đưa lưng ra cho người ta khám. Một tiếng ồ rất đỗi kinh ngạc của cả toán. Tim người bác sĩ trẻ trưởng đoàn như lạc một nhịp. Không cần một chẩn đoán phứctạp Toản nhận ra ngay đây là một dạng ung thư mêlanin ác tính - malignant melanoma, chắc chắn với di căn đã tràn lan. Dĩ nhiên căn bệnh có thể trị khỏi nếu phát hiện sớm; nhưng trường hợp này cho dù với phương tiện tiên tiến nhất trên đất Mỹ cũng đành bó tay. Chẳng phải là người bệnh mà là người thầy thuốc trẻ nói giọng buồn bã: Ông tới trễ quá, lẽ ra bệnh có thể trị khỏi... Bệnh nhân không tỏ vẻ bối rối, anh vẫn nhìn thẳng vào mặt người thầy thuốc, ánh mắt tím thẫm xuống vừa giận dữ vừa nghiêm khắc: Tới trễ? Chỉ có bác sĩ các ông là Những Người Tới Trễ chứ tôi cũng như mọi người dân vẫn ở đây từ bao giờ... Dứt khoát không chờ đợi một điều gì thêm ở đám thầy thuốc xa lạ ấy, anh quay lưng bước ra khập khễnh trên đôi nạng tre mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước, khắc khổ cam chịu và vẫn can trường như một người lính thuở nào. 

Thứ Năm, 13 tháng 3, 2025

NHỮNG CÁNH THÉP NGÀY TRƯỚC

VŨ XUÂN THÔNG (1939-2025)                                                                  Khóa 17 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam                                                                                     Trung Tá, LĐ 81 Biệt Cách Nhảy Dù

 

Dẫn nhập: Đây là bài viết của Biệt Cách Dù Vũ Xuân Thông về một trận đánh cuối cùng trong  cuộc đời binh nghiệp của Anh, đó là trận Phước Long diễn ra vào những ngày đầu tháng Giêng năm 1975, và đã không kết thúc bằng một chiến thắng; đây cũng là ám ảnh trong suốt cuộc đời còn lại của Anh. Bài viết đã không nói nhiều về “cái tôi” của Vũ Xuân Thông hay Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù mà chủ yếu như một lời tri ân chân thành đến tất cả các chiến sĩ Không Quân của Quân Lực VNCH đã ngày đêm tích cực yểm trợ Liên Đoàn 81 BCND chiến đấu ngay trong lòng địch để bảo vệ quê hương gấm vóc và hai chữ “Tự Do”.


*


Love me or hate me, both are in my favour,

If you love me, I am in your heart,
If you hate 
me, I am in your mind.

 


Các chiến binh Biệt CácNhảy Dù đang chờ  được trực thăng 

vận vào vùng trận địa 

 

Công ty tôi đang làm nằm trên con đường Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ trình của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ thời c lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cõi đời, cho đến những chiếc phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam.

Cái khu bảo tàng này lại nằm sát đường chỉ cách một cái hàng rào bằng lưới chống B-40 (chain link fence). Mỗi lần đi qua khu vực này, tôi đều lái xe chậm lại và không khỏi liếc nhìn vào đó dù tôi đã quá quen thuộc với những loại phi cơ đang nằm phơi trên bãi đậu.

Từ những chiếc Avia B 534, Bell P-39 Airacobra từ những năm 1934…
 đến những chiếc Gruman Hellcat hay Bearcat, những chiếc F-5, Skyraider cho đến những chiếc trực thăng trái chuối CH-46 đầu tiên, H-34 nặng nề, chiếc UH1, Cobra …và cả chiếc L-19 Bird Dog mong manh rất quen thuộc với tôi. Ngoài ra mỗi ngày tôi còn phải nghe tiếng gầm rú của các loại phi cơ chiến đấu cất cánh và hạ cánh mỗi giờ, những ngày không khí ẩm thấp, tiếng cánh quạt của nhiều loại trực thăng nặng nề vang dội trên đầu đã thực sự gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất.

Vì đó là những tiếng động đã quá quen thuộc với tôi hầu như đã tiềm ẩn trong trí nhớ tôi và không thể xóa nó đi được dù 37 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã từ cái nghiệp lính.

Năm nay tôi đã bước vào tuổi 75, vẫn phải đi làm, ngoài việc tiếp tục kiếm sống qua ngày trên mảnh đất tạm dung nầy, còn để ngăn ngừa sự thoái hóa của bộ óc càng ngày càng già nua …để rồi hủy hoại hết những điều cần phải nhớ. Tuổi già thì thường hay nói nhiều, nhớ nhiều về dĩ vãng. Thật ra con cháu tôi, chúng cũng thông cảm vì giờ đây tương lai của tôi, chỉ là đang bước dần tôi trạm cuối cùng, là cái nghĩa trang lạnh lùng nào đó.

Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của cộng sản việt nam từ Bắc chí Nam, từ trại kỷ luật đến xà lim Chí Hòa. Thử hỏi cuộc đời của tôi còn lại gì 

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2025

Thế giới Sáng tạo Miền Nam Việt Nam 1954 – 1975 cho tới nay tại Hải ngoại


 


Đây là bản dịch tiếng Anh bộ sách Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hoá của Ngô Thế Vinh, một bác sĩ và là một nhà văn sung mãn. Tác phẩm bao gồm một loạt chân dung của các nhà văn, nghệ sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ và các nhà văn hoá của “Thế giới Sáng tạo Miền Nam Việt Nam từ 1954 – 1975 và cho tới hiện nay tại Hải ngoại”.Những nhân vật mà Ngô Thế Vinh miêu tả đã trưởng thành ở Miền Nam trong một giai đoạn tự do nghệ thuật chưa từng có trước đây và không bao giờ có lại được trong bất kỳ bối cảnh xã hội Việt Nam nào trong suốt 50 năm sau đó. Chế độ CS tiếp quản Miền Nam vào năm 1975 đã tìm cách xoá bỏ di sản này bằng cách hình sự hoá nó và phá huỷ vật lý mọi tàn tích mà họ có thể thu thập được. Một ghi nhận kỳ thú là các bộ sưu tập về văn học Miền Nam trong giai đoạn này, không phải ở Việt Nam mà ở một số thư viện đại học Hoa Kỳ. Có vẻ như bộ sưu tập văn học Miền Nam Việt Nam hoàn chỉnh nhất được sáng tác dưới thời Việt Nam Cộng Hoà nằm trong thư viện của Đại học Cornell. TS Eric Henry