Nuôi Sẹo - Chương 1

Làng Ngò tên tự là Ngọc-Dương, thuộc tổng An-Định, huyện An-Giang là làng sở tại của huyện. Tât cả làng có độ dăm ba trăm nóc nhà ở chạy dài theo đường xe lửa Hà-Nội Hải-Phòng. Dân làng phần nhiều làm ruộng mò cua, đánh cá, bắt ốc, đan rổ rá bán ; một số làm thuê, ở mướn cho các nhà buôn ngoài phố An-Giang, phía bên kia đường sắt.

Làng Ngò không có một bờ rào tre xanh bao bọc chung quanh như những làng khác trong vùng quê này. Con sông Ngò chảy trong cánh đồng bằng phẳng như ôm ghì lấy nó mà đầy ép vào con đường sắt. Phía đường sắt, những mái nhà tranh ở chòi ra tới gần bờ đá ; phía sông, hàng rào tre đã thưa lại bị dứt ra từng quãng dài nên người đi bên kia sông có thể trông thầy đình Ngò và những nhà gianh lụp-xụp trên bờ sông ; chỉ phía đông giáp giới với đồng Ngò là có một bờ rào tre khá dầy.

Con đường chính của làng là đường đê của sông Ngò, một đầu bám vào đường sắt, một đầu chạy thẳng ra cổng đông. Nó chia làng ra hai khu vực rõ-rệt: một khu cao, - tất cả các nhà giầu trong làng đều ở trong khu này -, một khu thấp thoai-thoải xuống tận bờ sông, nhà ở khu này hầu hết là nhà gianh, đều bị ngập vào mùa nước lớn. Mỗi khu vực chia ra làm nhiều xóm : khu trên có xóm bà Chánh Tạ, xóm cụ Tuần, xóm bà đồng Mi, xóm Miếu, xóm Giêng; khu dưới có xóm Đá, xóm đình, xóm chùa. Rât nhiều ngõ nhỏ ngoằn ngoèo, ngoặt ngoẹo nôi liền các xóm này với đường cái làng.

Ngoài đình chùa và miếu làng ra, tất cả chỉ có độ chục nhà gạch ; còn hầu hết là những nhà gianh. Xóm nào cũng có những ao tù. Tất cả làng chỉ có một cái giếng xây ở giữa làng nằm cạnh đường cái làng.

Người làng phần nhiều là người hai họ Nguyễn và Đoàn. Họ Nguyễn là họ lập ra làng lại là họ có nhiều người giầu có thế lực. Những nhà gạch trong làng phần nhiều thuộc người họ này. Trái lại, họ Đoàn mới đền nhập-tịch được hai ba đời là họ vừa ít người lại vừa lép-vế, vừa nghèo. Những gia-đình này xưa nay vẫn chui-rúc với nhau lúc-nhúc trong các căn nhà gianh ở những nơi ẩm-thấp nhất.

Phố An-Giang chỉ cách biệt với làng Ngò bằng một con đường sắt. Dân phố, một số nhỏ là người làng, phần nhiều là người các nơi đển trú ngụ, buôn-bán, mở-mang công- nghệ. Có người lập-nghiệp đã trên vài chục năm. Ở đây có những hiệu khách tạp-hóa, lại có chợ Huyện, một tháng sáu phiên, là cái chợ lớn nhât cả vùng này.

Đường chính phố là một khúc của đường quan-lộ chạy dài theo đường sắt. Đến khoảng giữa phố, nó nở phình rộng - các hiệu khách lớn đều ở vào khoảng này - tách thêm ra hai ngành nhỏ, một ngành chạy về phía bắc, thẳng qua trước cổng huyện, tới bến đò làng Sen, một ngành theo hướng đình ra tới chợ Huyện. Ở một đầu phố là cái cầu sắt có đường xe lửa chạy trên, bắc qua con sông Ngò cắt ngang đầu phổ. Ở đầu phố đằng kia là cái nhà ga xe lửa sừng-sững trước mấy nhà hàng cơm, hàng nước. Rồi đền dẫy nhà vẹo xiêu, bẫn-thỉu của những người cu - ly, trộm cắp, gái đĩ, những kẻ không nghề-nghiệp nhất-định. Cách xa độ nửa cây số là trường sơ-học của huyện-lỵ, ở bên đường cái quan, quay mặt ra đường sắt.

Vùng huyện An-Giang này là vùng sản xuất gạo vào bậc nhất tỉnh Hải-dương. Một năm hai mùa lúa, các hiệu khách mua gạo của dân quanh vùng, đóng những va-gông lớn nhỏ, chở đi bán các nơi. Ở các làng quê lân-cận, chỗ nào người ta cũng nghe thấy tiếng cối xay ù-ù, tiêng cối giã thình- thịch. Dân quê làm gạo bán, còn lấy cám để nuôi lợn. Thường thường nhà nào cũng có một chuồng lợn hay một vài con lợn thả rông nên vùng huyện An-Giang này cũng sản-xuât rât nhiều lợn. Mấy làng ở cuổi huyện trên bờ sông Thái-Bình lại có nghề đánh cá. Vào những ngày phiên chợ, người ta có thể thấy ở sân ga cạnh những con lợn bị trói tròn như khoanh giò, những thúng đầy nghẹt cá : cá chép, cá mè, cá chắm... toàn cá tươi còn rãy còn ngáp, nằm phơi mình vẩy tròn, như còn lạnh hơi nước đáy sông.

Phố An-Giang chính là trung-tâm thương mại của vùng này. Người các làng đến đây để bán thóc, gạo, cá tôm, củi, vải... để mua những thứ cần dùng cho đời sống thường ngày như kim chỉ, dầu hỏa, muối, chén, bát đĩa, cầy cuốc, quần áo, giấy bút, mực. Đối với những người nhà quê ít ra tỉnh thì phố An-Giang lại là một thứ tỉnh nhỏ với những xe đạp, xe tay ếp-ếp, kính-coong, với những mái nhà ngói đứng khít- khịt, với hiệu khăn mũ, hiệu phở, hiệu xe đạp, với vài ba người mặc quần áo tây, với anh kẹo kéo rao liến-thoắng, người mua lông gà, lông vịt, đồng nát, thủy tinh... với tất cả cái không-khí náo-nhiệt riêng của nó. Suốt ngày người ta ra vào tấp-nập những hiệu khách tạp hóa. Những ngày phiên chợ, người đi chợ chuyện trò léo xéo, rì rầm từ lúc chưa nhìn rõ mặt người. Chợ họp ồn ào, lộn xộn, đông nghịt cho đền ba bốn giờ chiều mới vãn ; người ở chợ ra về, kẻ đội người gánh, điểm lốm đốm cả những cánh đồng lúa chạy dài thẳng tắp tới các làng xa xa. Vào những giờ tàu, ga An- Giang lại là nơi náo-nhiệt nhất vì những xe tay, những hành khách, những người bắc-tê, hàng quà, ăn mày. Đường xe lửa chạy qua ga An-Giang là mạch máu chính của miền này, hàng đổ xuông hay mang đi các nơi không biết bao nhiêu là người, bao nhiêu là tấn hàng.

Phổ An-Giang cũng là trung-tâm hành-chính của huyện nên người ta có thể thây lẫn với những người quen thuộc làm ăn buôn-bán, những lính cơ, lính lệ, những lý dịch lên hầu quan hay ở huyện ra về. Đôi với nhiều người nhà quê vùng này phô An-Giang cũng là một nơi chơi-bời phóng đãng. Anh trai làng có chút tiền có thể vào hiệu phở ăn vài bát hoặc buổi chiều thuê nửa giờ xe đạp để tập đi. Những lý- lịch nhân dịp lên hầu quan có thể tạt vào một đám bạc để đỏ đen. Rửng mỡ nữa, họ có thể vào chơi đánh trống, đú-đởn rồi ngủ liền qua đêm ở nhà cô đầu.

Đối với sinh-hoạt ngoài phố thì đời sống trong làng có vẻ giản dị và êm ái hơn nhiều.

Người làm đồng đi từ sáng sớm, cho đên tối mịt mới về. Những người ra buôn bán, làm lụng ngoài phố, thường cũng chỉ tạt về làng vào lúc bữa cơm. Một số người ở nhà xay lúa giã gạo, mải-mê làm việc ít khi ra tới ngoài ngõ. Có những cô gái không bận việc đồng, xay lúa giã gạo, thì tắm giặt, băm bèo, rửa ráy, giặt rũ ở bờ ao hoặc gánh nước ở giếng xây, ở bên sông đầu đình. Những ông già, bà già, không xốc vác được, ở nhà làm những việc nhẹ như chẻ lạt, cặp lại nong, nia, đan rỗ, rá hoặc giữ đứa cháu nhỏ. Thành ra ngoài đường ngõ làng thỉnh-thoảng người ta mới thấy mặt một vài ông hương-lý, vài người ăn mày tay bị, tay gậy đi lang- thang từ cổng này sang cổng kia, còn thì toàn là những trẻ con đùa nghịch, chạy nhảy lẫn với gà chó lợn thả rông lông- nhông. Làng phần nhiều ở trong cảnh yên tĩnh, thầm lặng chỉ thỉnh thoảng mới xao động bởi mấy tiếng trẻ kêu gọi nhau, cười nói, tiếng chó sủa trong ngõ, tiếng xay lúa ù-ù, tiếng chày giã gạo thình-thịch, tiếng xe lửa chạy rầm-rầm rung chuyển cả nền đất, bụi tre, tiếng người kẹo kéo bán rao, tiếng ông bà già gọi đứa cháu mãi chơi...

II

Người vùng này khi nói chuyện về những nhân-vật giầu có thế lực nhất, thường kể trước hết đến cụ tuần Đan. Cụ lớn Nguyễn-văn-Đan làng Ngò là người theo Tây-học, trước ra làm quan giúp chính-phủ Bảo-hộ, lên mãi đến chức tuần- phủ, nay về hưu làm tiên chỉ làng. Cụ có cái ấp Tái, thuộc địa phận làng Phủ-Tái, đông giáp với làng Ngò và nhiều ruộng rải rác khắp trong huyện An-Giang này.

Sau cụ tuần Đan là ông hàn Phiên, chủ cái ấp Thanh-long ở cách làng Ngò năm cây số. Có xấp-xỉ ngang số ruộng của ông Hàn là nhà thờ Bôi : ấp Bôi do các cha, các cụ bên Đạo trông nom và giao cho các con chiên cầy-cấy.

Nói về chuyện những nhân-vật nổi tiếng, người ta thường nhận thấy tất cả có bốn người đáng kể. Thứ nhât là đồc Tít. Y là một tên tướng cướp lợi-hại, có nhiều bộ hạ quầy-phá cả vùng huyện An-Giang này lại sang khu phía Nam tỉnh Bác-Ninh.

Thứ hai là cụ lớn Tuần Đan. Mặc dầu đã về hưu, cụ vẫn còn tiêng là một vị “ dân chi phụ mẫu”.

Ba là ông Nghị Ngật bên làng Sen, ngày xưa lý-trưởng bá- hộ, con người đã phá mất một phần ba cái gia-tài kếch-sù để mua chức chủ-nhiệm, kiêm chủ-bút, kiêm giám-đốc một tờ nhật báo có tiếng là đứng-đắn ở xứ này, và chạy chân nghị viên trong Viện Dân-biểu.

Thứ tư là Nuôi Sẹo.

Nuôi Sẹo không phải là người giầu sang, thế-1ực. Gã không hề ra làm cha mẹ dân. Gã cũng chưa bao giờ xén gia-tài của tổ-phụ để mua chân chủ-bút, chủ-nhiệm, giám-đốc báo hay chân nghị viên dân biểu. Ở vùng này, người tứ xứ đồn là vùng có ăn-học, Nuôi Sẹo vẫn là thằng dổt đặc cán mai cán tẫu, chẳng biết a, b, hay nhân chi sơ là gì cả. Ây thế mà gã cũng nổi tiếng. Gã chỉ là thằng mõ làng Ngò.

Tuy nổi tiêng vào bậc thứ tư ở vùng này, Nuôi Sẹo lại bí mật vào bậc nhất. Số là : người làng phổ, kể cả đên người hàng tổng, hàng huyện qua lại chơi bời, làm ăn ở làng Ngò, phố huyện, nhiều kẻ lục-lọi hồi đến tên thật - tên tục, tên cúng cháo - hoặc giả cái lý-lịch của Nuôi Sẹo, thì tất cả mọi người, người già như ông tư-văn chỉ hàng huyện, người trí- thức như các ông thừa, ông lục, các ông giáo, thâm-nho như ông đồ Lung làng Ngò, đọc sách thánh-hiền vanh-vách, lầu thông kinh-Sử, thuộc lòng những Tam-Hoàng, Ngũ-Đê, Nghiêu Thuân, Kiệt, Trụ cho đến nhà Minh, nhà Thanh... hết thẩy đều chịu câm như hến.

Người ta đồn rằng khi Nuôi Sẹo mới đên đây xin chân mõ làng, gã không mang theo thẻ, giây khai-sinh, căn cước gì hết. Ông lý - hồi đó là ông lý Thinh - hỏi tên gã để biên vào sổ làng, gã trả lời vừa ngọng lại vừa lắp, ông lý chẳng biết nên biên là “Nuôi Sẹo” hay “Nuôi Xẹo”. Ông lý là người có chút nho học, nhất định chủ trương “danh có chính thì ngôn mới thuận” nên hai ba ngày sau, ông vẫn chưa biên tên thằng mõ mới. Nhưng cũng may là một buổi, khi ông đang băn-khoăn về vân-đề danh-chính ngôn-thuận thì ông thây bà lý, trong lúc sai thằng mõ mới làm giúp bà ít việc vặt, bà thưỡi mồm ra gọi “Nuôi Sẹo”, gã biết chạy đến, ông lý liền dựa theo lời của mẹ đĩ mà biên là “Nuôi Sẹo”. Thằng mõ làng chính-thức có tên là “Nuôi Sẹo” từ đây.

Vân-đề tên đã giải quyết xong, ông lý liền hỏi đến tuổi gã. Gã lắc đầu. Ông lý chăm-chú nhìn mặt gã để đoản tuổi thì ông lây làm lạ là cho gã hai mươi, ba mươi, hay bốn mươi lăm, năm mươi tuổi cũng được. Ông lý nói với vợ: “Mẹ cắp. Nhìn thằng này mà đoán tuổi còn khó hơn là đoán tuổi cây đa Mâm-Xôi”. Tức quá, ông lý giẫm chân, quát : “Đéo mẹ cái thằng này mày cầm tinh con gì ?” Nuôi Sẹo cúi mặt nhăn răng ra cười. Ông lý quát hỏi lần nữa. Gã trả lời không biết cầm tinh con lợn, con trâu hay con ngỗng. Ông lý phát cáu chửi cho gã một hồi, rồi nhìn gã, ông nhăn răng bật cười và chịu để trống cái khoản tuổi của Nuôi Sẹo.

Ông lý hỏi tiếp quê-quán gã, gã lắc đầu trả không biết. Ông sực nhớ hỏi gã để biên vào sổ làng và xem có thể nhờ đó mà tìm ra gôc-tích quê-quán gã chăng. Gã trả lời nghe đâu như họ “Nguyễn” đệm chữ “văn”. Vị chi trước sau là : Nguyễn-văn-Sẹo. Ông lý thất vọng thở đánh phào: “tưởng rằng họ Tôn-Thất hay họ quý-hóa hiếm-hoi gì, chứ cái họ “Nguyễn” đèo thêm chữ “văn”, ở cái nước bốn ngàn năm văn hiến này, chung-qui chẳng nói thêm gì cả. Ông lý hỏi đến cha mẹ gã, gã chỉ im lặng, lắc đầu. Gia-dĩ ở trên đât nước Đại-Nam mà nhận vào hàng ngũ con cháu Rồng Tiên, gã cũng không biết đường nhận !

Sau này, nhiều lần Nuôi Sẹo làm việc cho bà Bá Tĩnh, ông Bá nói với gã nửa đùa nửa thật : “ Mày khôug có tên cúng cháo thì về sau chết đi, con cháu biết đằng nào mà cúng giỗ ?”. Lúc ấy, Nuôi Sẹo mới nhận rõ là mình không có tên cúng cháo thật. Gã chẳng biết trả lời ông Bá thể nào. Gã tưởng tới cảnh sau này con cháu trai gái đều ngẫn ngơ trước bàn thờ, không biết khấn cha, ông ra sao, trong lúc gã ở Âm-Ty bị đói, rách, khổ-sở, kéo lê đây đó thân tàn ma dại, gã lại sờ-sợ. Nếu con cháu không biết đựờng khấn để kiếp sau lên làm người, vô phúc phải làm cái giống chó ăn cứt thì mới lại khổ. Nuôi Sẹo nghĩ vậy mà rùng mình. Ông Bá có lúc lại thêm : “Ông cho thì sau này tha hồ mà húp cháo lá đa”. Nuôi Sẹo tưởng đên cảnh cướp cháo thí, trở nên buồn dười-dượi. Những lúc này, gã muôn có ngay cuốn gia phả để đem cái tên cúng cháo của mình ra công-bố cho bà con trong làng, ngoài phố biết. Gã tin chắc là cuốn gia phả ấy thể nào cũng có tên cúng cháo của gã. Và nhất-định cha mẹ gã phải giữ gìn cuốn gia phả ây cần-thận lắm, Nhưng phiền có điều là Nuôi Sẹo chẳng biết cha mẹ gã là ai và hiện giờ sống chết thể nào. Vì vậy, việc tìm cuốn gia phả mãi vẫn không xong. Và, câu chuyện tên cúng cháo cũng bị để đó, kéo dây-dưa ra mãi.

Gần đây có lần, ông Bá lại hỏi đùa gã : “Thể nào Nuôi Sẹo, mày đã tìm ra tên mày chưa ?”. Nuôi Sẹo im lặng không trả lời. Rồi sờ lên cái Sẹo lớn ở trên mặt, gã nghĩ : “ Lẩn thẩn quá. Mình đã có cái sẹo thì tất nhiên tên mình là Nuôi Sẹo rồi còn gì”. Mà tính đi tính lại, không có cái tên cúng cháo kia lại càng tốt. Chẳng là khộng có nó thì về cái khoản chửi nhau với ai, Nuôi Sẹo cũng đỡ lo. Nghĩ đền điểm lợi hại này, gã đưa bàn tay lên sờ cái sẹo, đầu lắc-lư, nhe hai hàm răng bừa, cải mả, khâp-khễnh ra mà cười tủm, cái cười ngụ- ý “tôi hài lòng về tôi lắm”.