Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2025

Kết Từ cho Bản Tiếng Anh _ Trịnh Y Thư

Thế Giới Sáng Tạo Miền Nam Việt Nam 1954-1975

và ở Hải Ngoại Đến Nay 



TRỊNH Y THƯ



Sinh 1952 tại Hà Nội. Viết văn, làm thơ, dịch. Nguyên Chủ bút tạp chí Văn Học (California). Đương chăm sóc cơ sở xuất bản Văn Học Press; Chủ bút Việt Báo Weekly. Tác phẩm dịch đã xuất bản: Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being - Milan Kundera); Căn phòng riêng — Virginia Woolf; Jane Eyre — Charlotte Brontë; Gặp gỡ với định mệnh - nhiều tác giả; Tập sách cái cười & sự lãng quên (The Book of Laughter and Forgetting – Milan Kundera). Sáng tác đã xuất bản: Người đàn bà khác (tập truyện); Chỉ là đồ chơi (tạp bút); Phế tích của ảo ảnh (thơ); Theo dấu thư hương (tạp luận), Đường về thủy phủ (tiểu thuyết). Hiện định cư tại California, Hoa Kỳ. Photo by Nguyễn Bá Khanh 


 

1.

 

Cuốn sách này có tựa đề Creative World of South Vietnam 1954-1975 and Overseas to Present (2025) / Thế Giới Sáng Tạo Miền Nam Việt Nam 1954-1975 và Ở Hải Ngoại Đến Nay (2025), là bản dịch của cuốn sách ban đầu được gọi là Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa của tác giả nổi tiếng Ngô Thế Vinh. Bản dịch tiếng Anh của học giả người Mỹ, Tiến sĩ Eric Henry. Đây là một cuốn sách độc đáo, theo nghĩa là nó trình bày cho độc giả nói chung những hình ảnh mới mẻ về nhiều nhân vật bao gồm nhà văn, tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà báo, họa sĩ, nhạc sĩ và các nhân vật văn hóa khác, những trí thức được kính trọng và có ảnh hưởng nhiều nhất ở Việt Nam.

Các chân dung văn học nghệ thuật và văn hóa, qua giọng văn đầy thân ái và nhân hậu của nhà văn Ngô Thế Vinh, là một công trình biên soạn phong phú tư liệu, một tập hợp quý hiếm quy tụ những khuôn mặt văn nghệ và văn hóa tiêu biểu của một thời đại vốn được xem là nhiễu nhương nhất của dân tộc, suốt nửa sau thế kỷ XX cho đến nay. Ngô Thế Vinh không khoác áo nhà phê bình, ông không làm kẻ đứng trên bục giảng nghiêm khắc phê phán tác phẩm hay sự nghiệp mỗi văn nghệ sĩ được nhắc đến. Ông không làm thế, bởi họ chẳng phải ai xa lạ mà chính là những bằng hữu văn nghệ, những vóc dáng tài năng, gần như trọn đời người, đã cùng ông dấn thân trên những chặng đường trắc trở nhất, trong những điều kiện ngặt nghèo nhất, để xây dựng một nền văn nghệ nhân bản đích thực và có giá trị nghệ thuật cao cho dân tộc. Ông mượn tác phẩm của họ như cái cớ để ngồi xuống nhẩn nha lần giở từng trang ký ức bộn bề, len lỏi vào từng ngõ ngách tâm hồn dưới lớp bụi dày thời gian, cố tìm lại những cung bậc hoài niệm mù tăm để làm nên những trang viết thật đẹp, thật ấm áp tình bằng hữu, thật chan chứa tình người. Tất cả những gì ông viết trong cuốn sách gần như chỉ là những nét phác họa đại cương về con người, khung cảnh sống, hoàn cảnh sáng tạo của những văn nghệ sĩ, mà chính ông cũng là một thành viên. Đan xen vào đấy là những không gian và thời gian kỷ niệm, đầy ắp kỷ niệm, kỷ niệm nào cũng được nâng niu, trân quý như món bảo vật khó tìm. Tuy thế, đọc kỹ hơn, chúng ta có thể cảm nhận ra một điều, là bên dưới lớp sắc màu tương đối hiền hòa, dịu êm ấy là niềm xác tín chắc nịch, một cái nhìn quả quyết cộng thêm chút tự hào, về một nền văn nghệ, văn hóa miền Nam Việt Nam tự do thời kỳ 54-75 và, trong chừng mực nào đó, vẫn tiếp nối ở hải ngoại, mà sự đột phá về các mặt tư tưởng, nghệ thuật, nhân sinh, tưởng như chưa thời nào qua mặt nổi.

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2025

Creative World of South Vietnam 1954-1975 and Overseas to the Present (2025)

EPILOGUE

by Trịnh Y Thư



 

1.

This book, entitled Creative World of South Vietnam 1954-1975 and Overseas to the Present (2025), originally known as Literary, Artistic, and Cultural Portraits, by the eminent author Ngô Thế Vinh with English translation by the American scholar Eric Henry is a unique book, in the sense that it presents to the general readers fresh images of many personalities including writers, novelists, poets, journalists, painters, musicians and other cultural figures, who, by all accounts, have been among the most respected and influential intellectuals in Vietnam. 

 

Endowed throughout with the author’s warm, story-telling style, Ngô Thế Vinh’s book is a rich compilation of documents, a rare collection of portraits of literary and cultural figures of an era considered the most turbulent in the nation from the second half of the 20th century until now. Ngô Thế Vinh does not pretend to be a critic. He does not stand on a podium to criticize the works or careers of the figures he writes about. One reason for this is that they are not strangers to him but friends in art, talented figures who in the most difficult conditions devoted almost their entire lives to the creation of a humane and artistically significant body of literature, art, and music for the nation. From the depth of his memories, the author penetrates every corner of his and their souls, sometimes from under the thick layer of the dust of time, trying to find just the right tones with which to create his beautiful, nostalgic pages, filled with the warmth of friendship, and with all manner of humanity. The studies in this book all have the character of sketches that convey the living environment, the creative circumstances, of his subjects who, like him, were artists and intellectuals. Interwoven with his narratives are spaces and times filled with memories, with each memory being cherished and treasured like a precious object. However, if we read attentively, we can detect another element in these accounts:  beneath the relatively gentle, soft layer of color on the narrative surface, there is a firm conviction, a resolute view, plus a bit of pride, concerning a body literature, art and science that developed freely in Vietnam in the period from 1954 to 1975 and which, to some extent, continues to exist overseas, whose breakthroughs in terms of ideology, art, and human life seem never to have been surpassed.

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2025

Rising Asia Journal, Summer Issue May 2025

Kết Từ 
Thế Giới Sáng Tạo Miền Nam 1954 – 1975 
Những thăng trầm của một dân tộc
với năng khiếu nghệ thuật mãnh liệt
                                                                

Các bài viết của Bác sĩ Vinh được đưa vào số báo Rising Asia này đều là bằng chứng chi tiết về một sự kiện lịch sử quan trọng: chính quyền do nhà nước mới Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi đánh bại miền Nam vào năm 1975 đã sử dụng mọi biện pháp trong khả năng để xóa bỏ nền văn hóa đã ra đời dưới thời Cộng hòa Miền Nam trong giai đoạn 1954 đến 1975. Trong cả hai lĩnh vực văn học và nghệ thuật thị giác, nỗ lực này ít nhất đã thành công tạm thời; chỉ có một vài tập truyện và bài viết rải rác, một vài bức tranh và tác phẩm điêu khắc lạc lõng từ thời kỳ đó đã quay trở lại đất nước trong nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi chiến tranh kết thúc. Nhưng bản chất của các hệ thống chính trị xã hội không phải là tĩnh tại; chúng tiến hóa. Có thể vào một thời điểm nào đó trong nửa thế kỷ tới, văn học và nghệ thuật của Cộng Hòa Miền Nam sẽ không đặt ra thách thức chính trị đối với chế độ Việt Nam sau này và do đó, sẽ được chấp nhận lại vào nền văn hóa. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa xảy ra.

Điều đáng chú ý là ở một lĩnh vực, nỗ lực xóa bỏ văn hóa Miền Nam của chế độ mới đã hoàn toàn thất bại: lĩnh vực ca khúc đại chúng. Chế độ chắc chắn đã làm hết sức mình trong những năm đầu để xóa bỏ âm nhạc miền Nam. Cá nhân tôi có quen một ca sĩ đã bị giam cầm mười năm vì bị bắt gặp đang nghe một bài hát có đặc tính "tiểu tư sản". Chế độ muốn âm nhạc phải có tinh thần cách mạng và mang tính quần chúng. Nó đã không liên quan gì đến sở thích cá nhân. Một đối tượng cụ thể bị chỉ trích là "nhạc vàng", một loại nhạc buồn được hình thành nhằm xoa dịu thần kinh mệt mỏi của những khách hàng trong quán cà phê và quán bar. Nó được sản xuất và trình diễn rất nhiều dưới thời Cộng hòa. Sự phản đối của nhà nước đối với loại nhạc này một phần dựa trên một mê tín cổ xưa của Trung Hoa, rất có ảnh hưởng ở Đông Á, theo đó, loại nhạc không phù hợp có thể khiến một quốc gia hoặc triều đại sụp đổ, trong khi loại nhạc phù hợp có thể khiến một quốc gia hoặc triều đại hưng thịnh. Có một tên gọi tiếng Trung Hoa cho loại nhạc không đúng này là: wáng guó zhī yīn 亡國之音, (vong quốc chi âm) hay “nhạc mất nước”. Nhưng trong nhiều thập niên hiện nay, “nhạc mất nước”, một thể loại chủ yếu gồm các bài hát được sáng tác dưới thời Cộng hòa, đã hoàn toàn thắng thế ở Việt Nam. Chế độ này đã nỗ lực quảng bá “nhạc đỏ”—những giai điệu vui tươi, hào hùng, lạc quan do những người đồng chí hân hoan hát—nhưng nhạc vàng mới là thể loại mà mọi người thích nghe nhất.

EPILOGUE _ VIETNAMESE CULTURAL HISTORY

 RISING ASIA JOURNAL _ SUMMER ISSUE MAY 2025

THE CREATORS OF SOUTH VIETNAM 

AT HOME AND ABROAD


The Vicissitudes of an Intensely Artistic People



Rising Asia Journal, Volume 5, Issue 2
Summer, May to August 2025 
 


The articles by Dr. Vinh included in this issue of Rising Asia all bear detailed witness to a significant historical fact: the government set up by the new state of the Socialist Republic of Vietnam subsequent to vanquishing the South in 1975 used every means in its power to extinguish the culture that had come to life under the Southern Republic in the period 1954 to 1975. In the two realms of literature and the visual arts, this effort has been at least temporarily successful; only a few stray stories and articles, and a few stray paintings and sculptures from that period have made their way back into the country during the half-century that has elapsed since the end of the war. But sociopolitical systems are not by their nature static; they evolve. It is possible that at some point during the coming half-century the literature and art of the Southern Republic will not pose a political challenge to some later Vietnamese regime and, hence, will be reaccepted into the culture. This, however, has not as yet occurred.

It is worth noting, however, that in one area the regime’s effort to eradicate the culture of the south utterly failed: the area of popular song. The regime certainly did its best in its early years to eradicate the music of the south. I am personally acquainted with a singer who was imprisoned for ten years as a consequence of having been caught listening to a song with “petty-bourgeois” characteristics. The regime wanted music to be revolutionary in spirit and to have a mass character. It was supposed to have nothing to do with merely personal desires. A particular object of opprobrium was “yellow music” (nhạc vàng), a type of formulaically morose music designed to soothe the tired nerves of people in cafés and bars. It was produced and performed in great profusion under the Republic. The opposition of the government to this type of music was based in part on an ancient Chinese superstition, very influential in East Asia, according to which music of the wrong sort can bring a nation or dynasty to ruin, whereas music of the right sort can cause a nation or dynasty to flourish. There was a Chinese name for music of the wrong sort: wáng guó zhī yīn 亡國之音, or “nation-destroying music.” But for several decades now, “nation-destroying music,” a category mainly composed of songs created under the Southern Republic, has completely triumphed in Vietnam. The regime has made efforts to promote “red music” (nhạc đỏ)—jolly, martial, optimistic tunes sung by happy comrades—but yellow music is what people overwhelmingly prefer to listen to.


Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2025

TRUNG TÁ BIỆT CÁCH DÙ VŨ XUÂN THÔNG

Một Chiến Binh, Một Bạn Hiền Vừa Ra Đi

Lời Giới Thiệu: Trong bài viết dưới đây, BS Ngô Thế Vinh khắc họa Trung tá Vũ Xuân Thông (người mới qua đời ngày 12/3/2025) như một biểu tượng của người lính VNCH: dũng cảm, trung thành, và đầy lí tưởng. Qua câu chuyện của ông, người đọc cảm nhận được sự hi sinh thầm lặng và những vết thương tâm hồn mà thế hệ ông phải gánh chịu. Bài viết không chỉ kể về cá nhân Trung tá Vũ Xuân Thông mà còn phản ảnh số phận của hàng ngàn quân nhân VNCH sau 1975, từ tù đày đến cuộc sống lưu vong. Trong bối cảnh kỷ niệm 50 năm ngày chấm dứt chiến tranh, bài viết này là một tư liệu quí giá về lịch sử VNCH, đồng thời lưu giữ kí ức về một thế hệ chiến binh và những giá trị họ đã bảo vệ. GS Nguyễn Văn Tuấn, Sydney Australia




Thứ Năm, 24 tháng 4, 2025

TRUNG TÁ BIỆT CÁCH DÙ VŨ XUÂN THÔNG

          MỘT CHIẾN BINH, MỘT BẠN HIỀN VỪA RA ĐI


Hình 1: Tốt nghiệp khóa 17 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt 1963, Vũ Xuân Thông tình nguyện gia nhập Lực Lượng Đặc Biệt, một binh chủng mới của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. Hình trên là Đại Úy LLĐB Vũ Xuân Thông khi đang là Liên Toán Trưởng Thám Sát của Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta, sau này, sát nhập với Tiểu Đoàn 81 để trở thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, một lực lượng tổng trừ bị thiện chiến trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. [nguồn: LĐ81 BCNDLLĐB]

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2025

Quân Trường Quang Trung 1969 _ Và Đêm Kinh Hoàng


Cha Vô Danh _ Quân Trường Quang Trung Phần 1



Cha Vô Danh _ Quân Trường Quang Trung Phần 2 



Cha Vô Danh _ Đêm Kinh Hoàng  Phần 1 



 Cha Vô Danh _ Đêm Kinh Hoàng  Phần 2






 





 

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2025

Một Chọn Lựa: Danh Dự và Trách Nhiệm


Y sĩ tiền tuyến VŨ ĐỨC GIANG

Y sĩ trưởng Tiểu Đoàn 7 TQLC 

Ngày 21 tháng Tư 1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức và khẳng định với quốc dân và chiến hữu trên Truyền Hình Việt Nam là sẽ trở lại với Quân Đội để chiến đấu. Ông trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Đêm 25 tháng Tư, 1975 ông Thiệu và toàn gia đình đã ở Đài Loan! 

_ Ngày 25 tháng Tư 1975, nguyên Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đã từng nói “sẽ ở lại Sài Gòn và chiến đấu cho tới chết. Tôi sẽ biến Sài Gòn trở thành một Leningrad thứ hai” nhưng chỉ 4 ngày sau, 29 tháng Tư 1975 Thiếu tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ cũng cao chạy xa bay, trên một chiếc trực thăng ra Hàng không Mẫu hạm Midway bỏ lại sau lưng lời thề quyết tử. 

_ Trong khi đó tại bãi biển Thuận An, Y sĩ Trung úy Vũ Đức Giang, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến và mấy quân Y tá vẫn khiêng các thương binh lên tàu, sau đó anh và toán cứu thương cùng bước xuống tàuđi dưới làn mưa đạn của VC lên bờ để tiếp tục ở lại cùng đồng đội chiến đấu. Ý thức chọn lựa trách nhiệm và danh dự của BS Vũ Đức Giang đã kết thúc bằng cái chết bi thảm của Anh ở tuổi 28.


 

(Vũ Đức Giang, trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài Gòn 1967-1974)


          Đây là bài viết chính của BS Phạm Anh Dũng về Vũ Đức Giang, một người bạn thân cùng lớp tại trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn và cùng khóa Quân Y Hiện Dịch 21, cũng là khóa QYHD cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Cũng thêm vào bài là các chi tiết, tạm gọi là bối cảnh sơ lược, đáng nhắc lại, còn ghi nhận được của từng năm học, liên quan đến cả học trình Y Khoa bảy năm 1967-1974. Phạm Anh Dũng

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2025

Quân Trường Quang Trung 1969 Và Đêm Kinh Hoàng _ Phạm Ngọc Lân



 
Khoá 11 Trưng Tập Y Nha Dược



Dẫn Nhập: Quân Trường Quang Trung 1969 và Đêm Kinh Hoàng là trích đoạn 2 chương sách 40 & 41 từ tác phẩm Cha Vô Danh của Phạm Ngọc Lân. Tác giả đã ghi lại trung thực những trải nghiệm đầu đời của hơn 200 Y Nha Dược Sĩ mới bị động viên vào quân ngũ nhưng ngay trong 9 tuần lễ đầu của thời gian thụ huấn quân sự, đã có cả “máu và nước mắt” với chết chóc và thương vong: một bác sĩ bị tử thương và 15 sĩ quan Quân Y bị thương do một trái mìn Claymore định hướng nội hoá nhắm vào doanh trại của họ. Cũng không phải là vô ích để nhìn lại một sự kiện xảy ra cách đây cũng đã 56 năm. Phạm Ngọc Lân sinh năm 1944, học trường trung tiểu học Adran Đà Lạt, tốt nghiệp Cao Học Dược Khoa, và Cử Nhân Giáo Khoa Vật Lý Đại Học Khoa Học Sài Gòn, Gỉảng Sư Đại Học Dược kiêm giáo sư lý hoá trường Marie Curie, anh còn là một nghệ sĩ tài hoa, một tay đàn guitar cổ điển có hạng. Tuy mang hai dòng máu Pháp Việt, Phạm Ngọc Lân rất yêu tiếng Việt và có một tâm hồn rất Việt Nam. Có thể nói Cha Vô Danh là hồi ký của một nhân vật trung tâm Phạm Ngọc Lân, nhưng bao quát hơn là viết về những con người thật việc thật, họ đã sống trên một đất nước Việt Nam trong thế kỷ 20 đầy thăng trầm với chiến tranh và loạn lạc. Tác giả muốn ghi lại cho các thế hệ mai sau có thể hiểu biết thêm không chỉ về đời sống của cha ông, mà hơn thế nữa về lịch sử cận đại của đất nước mình. Cha Vô Danh là hành trình của một trí thức đích thực của Miền Nam Việt Nam, đã được chính tác giả viết với 3 ngôn ngữ Pháp, Việt, Anh. 

*

40. Quân trường Quang Trung 1969 

 

Ngày thứ hai mùng 2 tháng 6 năm 1969, khóa 11 Trưng Tập được đưa lên học quân sự tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Suốt thời gian thụ huấn tại đây, Long viết đều đều cho Mai, gần như một nhật ký ghi lại những sinh hoạt trong trại lính. Những chuyện vui buồn đáng ghi lại làm kỷ niệm, vì nó rất khác với sinh hoạt ngoài đời sống dân sự.

 

Hơn 200 Y, Nha, Dược, Thú Y sĩ trình diện tại Trường Quân Y từ 7 giờ rưỡi với ba-lô trên lưng và túi vải nhà binh đựng đồ dùng (từ thời lính Pháp đã có loại túi này, gọi là « sac marin »), leo lên tám chiếc GMC. Đoàn xe chuyển bánh hướng về Hóc Môn phía tây bắc Sài Gòn. Sau khi vào vòng đai Quang Trung, đoàn xe chạy thẳng đến trại Võ Tánh, liên đoàn A, tiểu đoàn Nguyễn Huệ. Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung là cả một thành phố với nhiều đường sá, nhưng không có nhà ở mà chỉ có doanh trại.

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

NGƠ NGÁC BÊN DÒNG SÔNG CỬU LONG _ Phạm Cao Hoàng

 gửi anh Ngô Thế Vinh



 

rồi những người đi cũng trở về

ngậm ngùi ghé lại bến sông xưa

chuyến phà năm cũ không còn nữa

và bóng người xưa đã mịt mờ

 

chỉ còn những dấu chân năm tháng

của Chín Con Rồng ở phía Nam

chỉ còn những cảnh đời lang bạt

ngơ ngác bên dòng sông Cửu Long

 

chỉ còn tiếng thì thầm than thở

ngửa mặt nhìn lên phía thượng nguồn

bây giờ nước mặn sâu trong đất

đất nứt, vườn khô, thôn xóm buồn

 

rồi những người đi cũng trở về

chạnh lòng thương chín nhánh sông xưa

mây bay mây vẫn còn bay mãi

đời vẫn bơ phờ vẫn xác xơ

 

PHẠM CAO HOÀNG

Virginia, 12.2023


Bài thơ này đã được nhạc sĩ Nguyễn Quyết Thắng phổ thành ca khúc. Bấm vào đường dẫn dưới đây để nghe ca sĩ Ngọc Quy trình bày ca khúc này:


NGƠ NGÁC BÊN DÒNG SÔNG CỬU LONG - cs Ngọc Quy - nhạc Ng Quyết Thắng - thơ Phạm Cao Hoàng .

 

Thứ Năm, 20 tháng 3, 2025

THẾ GIỚI SÁNG TẠO MIỀN NAM VIỆT NAM 1954 – 1975 ĐẾN NAY _ Eric Henry

 

Giới thiệu của người dịch

 

 

Cuốn sách này là bản dịch của một tập hợp bài viết về các nhân vật, văn học và báo chí của các cá nhân người Việt đã có những đóng góp đáng kể cho văn học, nghệ thuật và khoa học. Đây là một nguồn thông tin phong phú về lịch sử xã hội, văn hóa và chính trị của Miền Nam Việt Nam, cũng như sự nghiệp cá nhân trong lãnh vực nhân văn. 

 

Những nhân vật được mô tả phần lớn đã nổi tiếng trong thời kỳ 1954 - 1975. Sau khi Miền Nam sụp đổ vào tay Bắc quân năm 1975, hầu hết trong số họ đã bị giam cầm một số năm trong các trại cải tạo cộng sản. Sau đó, vào những năm 1980, một số đã đến Hoa Kỳ và hầu hết vẫn tiếp tục hoạt động sáng tạo.

 

Võ Phiến (1925 - 2015), nhà tiểu luận, tiểu thuyết gia và sử gia văn học, đã mô tả nền văn học phát sinh dưới thời Việt Nam Cộng Hòa như sau: “Ở Miền Nam Việt Nam thời 1954-75, giữa hoàn cảnh chiến tranh, đã phát triển một nền văn nghệ khác hẳn. Trên sách báo tha hồ nở rộ những nụ cười sảng khoái, công kích điều sai chuyện quấy, đùa riễu những phần tử xấu xa. Phần tử ấy không thuộc hạng Lý Toét Xã Xệ. Không hề có nhân vật nào thấp bé như thế bị bêu riếu trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu một tỉnh cho đến các vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm ran khắp cùng trên mặt sách báo... Mặt khác, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng, hay có dở có, cao thâm có mà ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, tha hồ được tìm hiểu, trình bày, quảng bá. Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy.”

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2025

The Creative World of South Vietnam 1954 - 1975 To The Present _ ERIC HENRY


Translator’s Introduction

 


 

This book is a translation of a collection of personal, literary, and journalistic vignettes of Vietnamese individuals who have made notable contributions to literature, art, and science. It is a rich source of information on the social, cultural, and political history of South Vietnam, as well as the individual careers of its human subjects. 

The people described for the most part came into prominence in the period 1954 – 1975. After the fall of the South to North Vietnamese forces in 1975, most of them were imprisoned for some number of years in communist reeducation camps after 1975. Later, in the 1980s, some of them made their way to the U.S., and most continued to be creatively active.

Võ Phiến, essayist, novelist, and literary historian, characterized the literature that arose under the southern Vietnamese republic as follows: In the Vietnam of 1954 to 1975, a totally different type of literature arose. Gay and sharp laughter spread freely over books and journals, laughter that attacked mistaken deeds and perverse policies, and made fun of elements guilty of unworthy behavior… The objects of attack were provincial or national leaders and power brokers. The sound of laughter ran freely and noisily across all books and journalsAt the same time, every view of human life, every faith, both fine and deluded, both noble and crazed, existed as well; one could seek to understand, expound, and promulgate these beliefs, just as one pleased. At no time before or after 1954 – 1975 in the South can one find any literary tradition in our country that developed in such a free and open manner.

 

The regime that took over in 1975 sought to eradicate this legacy by criminalizing it and by physically destroying all remnants of it that could be collected. As a result, the most complete collections of the literature of Vietnam from this period are to be found, not in Vietnam, but in certain academic libraries in the U.S., such as those of Cornell University, Yale University and the University of Hawaii

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2025

A SMALL DREAM FOR THE YEAR 2000 _ Ngô Thế Vinh

A Small Dream for the Year 2000 was written 30 years ago (January 1995), and is now included in the anthology The Colors of April: Fiction on  The Vietnam War’s Legacy 50 Years Later. This title  will be released on March 25, 2025 on Amazon and bookstores.


The man, a farmer, was formerly an ARVN soldier.  Twenty years had passed since his days in the military, and he was now a middle-aged person.  Though not yet fifty, he had been made pallid, old and decrepit by a life of unrewarding hard labor.  He had lost his left foot, ironically after his military service had terminated, when stepping on a mine right in his own rice field.  One did not have to be a doctor to know that his body hosted various illnesses and diseases: malnutrition, chronic malaria, and anemia.  Whatever energy and dignity he retained was revealed in his bright though rather sad eyes, eyes that always looked directly at those of the person he talked to.  Today, he came to this field dispensary for another kind of complaint.  It concerned a bluish-black lesion on his back which was not painful, but had been oozing an ichorous discharge for a long while.  He had sought various treatments, but found no hope of a cure.  First, he had been made to wait in a district's health service station where a communist doctor had eventually given him a few Western medicinal tablets; then a doctor of traditional medicine had treated him in turn with an herbal concoction and acupuncture.  Despite all that, the disease refused to go away, even as he was steadily emaciating.  Hearing that a group of healthcare workers from overseas had come to offer volunteer services, he decided to come to them at this dispensary and try his luck.  With good fortune, he hoped, he might even be able to again meet the doctor he used to know – the chief surgeon of his Airborne Ranger Battalion in the past, who presently lived and worked in America.  But it turned out that all the faces he saw were young and unfamiliar.  Nonetheless, he showed them his back for examination.  From the team of young doctors came an audible gasp of surprise.  The heart of Toan, the team leader, seemed to miss a beat.  Without the necessity of engaging in complicated diagnostic procedures, he immediately recognized a form of malignant melanoma, which certainly would have had metastases spread to other parts of the body.  The disease, of course, could have been cured if discovered earlier.  Unfortunately, this present case, being at an advanced stage, could not be treated even with the most elaborate and sophisticated medical technologies available in the US.  It was not the patient, but the young doctor who expressed sadness: "You've come too late; this disease otherwise could have been treated successfully."  Betraying no embarrassment, the soldier-turned-farmer patient looked directly at the young doctor, his eyes darkened with anger and sternness: "I've come too late, you say? It’s you doctors who have come late, whereas myself, like all my compatriots, have been here forever."  Flatly refusing to wait for anything else from the group of unknown doctors, the man turned his back on them and walked out, limping along on his bamboo crutches, his eyes looking straight ahead, accepting his miserable lot with the same courage he had shown as a soldier in a time past. 

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2025

GIẤC MỘNG CON NĂM 2000 _ Ngô Thế Vinh

Giấc Mộng Con Năm 2000 được viết cách đây 30 năm (01.1995), nay được chọn đưa vào tuyển tập The Colors of April với nhiều người viết, như “Di Sản của Chiến Tranh Việt Nam 50 Năm Sau.” Sách sẽ được chính thức phát hành vào ngày 25 tháng 3 năm 2025 trên Amazon và các nhà sách.   




CÂU CHUYỆN CUỐI NĂM.  Người đàn ông nông dân ấy gốc lính cũ, hai mươi năm sau đã bước vào tuổi trung niên, chưa tới tuổi năm mươi nhưng cuộc sống lao động lam lũ khiến anh ta trông xanh xao và già xọm. Anh mất một bàn chân trái khi đã mãn lính do đạp phải mìn ngay trên ruộng nhà. Không cần là bác sĩ cũng biết là anh ta mang trên người đủ thứ bệnh tật: thiếu ăn suy dinh dưỡng, sốt rét kinh niên và thiếu máu. Tất cả sinh lực và nhân cách của anh là nơi đôi mắt sáng tuy hơi buồn nhưng luôn luôn nhìn thẳng vào mặt người đối diện. Hôm nay anh tới đây vì một lý do khác. Một mảng đen bầm nơi lưng không đau rỉ nước vàng từ bấy lâu, trị cách gì cũng không hết. Chầu trực lên trạm y tế huyện được y sĩ cách mạng cho ít viên thuốc tây, rồi đến thầy đông y cho bốc thuốc nam và cả châm cứu nữa mà bệnh thì vẫn không chuyển trong khi người anh cứ gầy rốc ra. Nay nghe có đoàn y tế thiện nguyện ở ngoại quốc về, anh cũng muốn tới thử coi, biết đâu anh lại được gặp ông thầy cũ - người y sĩ trưởng của anh năm nào. Và rồi anh chỉ gặp toàn những khuôn mặt trẻ lạ, nhưng anh vẫn cứ đưa lưng ra cho người ta khám. Một tiếng ồ rất đỗi kinh ngạc của cả toán. Tim người bác sĩ trẻ trưởng đoàn như lạc một nhịp. Không cần một chẩn đoán phứctạp Toản nhận ra ngay đây là một dạng ung thư mêlanin ác tính - malignant melanoma, chắc chắn với di căn đã tràn lan. Dĩ nhiên căn bệnh có thể trị khỏi nếu phát hiện sớm; nhưng trường hợp này cho dù với phương tiện tiên tiến nhất trên đất Mỹ cũng đành bó tay. Chẳng phải là người bệnh mà là người thầy thuốc trẻ nói giọng buồn bã: Ông tới trễ quá, lẽ ra bệnh có thể trị khỏi... Bệnh nhân không tỏ vẻ bối rối, anh vẫn nhìn thẳng vào mặt người thầy thuốc, ánh mắt tím thẫm xuống vừa giận dữ vừa nghiêm khắc: Tới trễ? Chỉ có bác sĩ các ông là Những Người Tới Trễ chứ tôi cũng như mọi người dân vẫn ở đây từ bao giờ... Dứt khoát không chờ đợi một điều gì thêm ở đám thầy thuốc xa lạ ấy, anh quay lưng bước ra khập khễnh trên đôi nạng tre mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước, khắc khổ cam chịu và vẫn can trường như một người lính thuở nào. 

Thứ Năm, 13 tháng 3, 2025

NHỮNG CÁNH THÉP NGÀY TRƯỚC

VŨ XUÂN THÔNG (1939-2025)                                                                  Khóa 17 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam                                                                                     Trung Tá, LĐ 81 Biệt Cách Nhảy Dù

 

Dẫn nhập: Đây là bài viết của Biệt Cách Dù Vũ Xuân Thông về một trận đánh cuối cùng trong  cuộc đời binh nghiệp của Anh, đó là trận Phước Long diễn ra vào những ngày đầu tháng Giêng năm 1975, và đã không kết thúc bằng một chiến thắng; đây cũng là ám ảnh trong suốt cuộc đời còn lại của Anh. Bài viết đã không nói nhiều về “cái tôi” của Vũ Xuân Thông hay Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù mà chủ yếu như một lời tri ân chân thành đến tất cả các chiến sĩ Không Quân của Quân Lực VNCH đã ngày đêm tích cực yểm trợ Liên Đoàn 81 BCND chiến đấu ngay trong lòng địch để bảo vệ quê hương gấm vóc và hai chữ “Tự Do”.


*


Love me or hate me, both are in my favour,

If you love me, I am in your heart,
If you hate 
me, I am in your mind.

 


Các chiến binh Biệt CácNhảy Dù đang chờ  được trực thăng 

vận vào vùng trận địa 

 

Công ty tôi đang làm nằm trên con đường Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ trình của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ thời c lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cõi đời, cho đến những chiếc phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam.

Cái khu bảo tàng này lại nằm sát đường chỉ cách một cái hàng rào bằng lưới chống B-40 (chain link fence). Mỗi lần đi qua khu vực này, tôi đều lái xe chậm lại và không khỏi liếc nhìn vào đó dù tôi đã quá quen thuộc với những loại phi cơ đang nằm phơi trên bãi đậu.

Từ những chiếc Avia B 534, Bell P-39 Airacobra từ những năm 1934…
 đến những chiếc Gruman Hellcat hay Bearcat, những chiếc F-5, Skyraider cho đến những chiếc trực thăng trái chuối CH-46 đầu tiên, H-34 nặng nề, chiếc UH1, Cobra …và cả chiếc L-19 Bird Dog mong manh rất quen thuộc với tôi. Ngoài ra mỗi ngày tôi còn phải nghe tiếng gầm rú của các loại phi cơ chiến đấu cất cánh và hạ cánh mỗi giờ, những ngày không khí ẩm thấp, tiếng cánh quạt của nhiều loại trực thăng nặng nề vang dội trên đầu đã thực sự gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất.

Vì đó là những tiếng động đã quá quen thuộc với tôi hầu như đã tiềm ẩn trong trí nhớ tôi và không thể xóa nó đi được dù 37 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã từ cái nghiệp lính.

Năm nay tôi đã bước vào tuổi 75, vẫn phải đi làm, ngoài việc tiếp tục kiếm sống qua ngày trên mảnh đất tạm dung nầy, còn để ngăn ngừa sự thoái hóa của bộ óc càng ngày càng già nua …để rồi hủy hoại hết những điều cần phải nhớ. Tuổi già thì thường hay nói nhiều, nhớ nhiều về dĩ vãng. Thật ra con cháu tôi, chúng cũng thông cảm vì giờ đây tương lai của tôi, chỉ là đang bước dần tôi trạm cuối cùng, là cái nghĩa trang lạnh lùng nào đó.

Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của cộng sản việt nam từ Bắc chí Nam, từ trại kỷ luật đến xà lim Chí Hòa. Thử hỏi cuộc đời của tôi còn lại gì 

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2025

Thế giới Sáng tạo Miền Nam Việt Nam 1954 – 1975 cho tới nay tại Hải ngoại


 


Đây là bản dịch tiếng Anh bộ sách Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hoá của Ngô Thế Vinh, một bác sĩ và là một nhà văn sung mãn. Tác phẩm bao gồm một loạt chân dung của các nhà văn, nghệ sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ và các nhà văn hoá của “Thế giới Sáng tạo Miền Nam Việt Nam từ 1954 – 1975 và cho tới hiện nay tại Hải ngoại”.Những nhân vật mà Ngô Thế Vinh miêu tả đã trưởng thành ở Miền Nam trong một giai đoạn tự do nghệ thuật chưa từng có trước đây và không bao giờ có lại được trong bất kỳ bối cảnh xã hội Việt Nam nào trong suốt 50 năm sau đó. Chế độ CS tiếp quản Miền Nam vào năm 1975 đã tìm cách xoá bỏ di sản này bằng cách hình sự hoá nó và phá huỷ vật lý mọi tàn tích mà họ có thể thu thập được. Một ghi nhận kỳ thú là các bộ sưu tập về văn học Miền Nam trong giai đoạn này, không phải ở Việt Nam mà ở một số thư viện đại học Hoa Kỳ. Có vẻ như bộ sưu tập văn học Miền Nam Việt Nam hoàn chỉnh nhất được sáng tác dưới thời Việt Nam Cộng Hoà nằm trong thư viện của Đại học Cornell. TS Eric Henry

 

 

Thứ Năm, 6 tháng 3, 2025

Ngô Thế Vinh và Tiếng Vọng Cô Lãnh Từ Đỉnh Trời _ Uyên Nguyên

                                                              


Tây Tạng là đỉnh trời của thế giới, nơi những dòng sông lớn khai sinh và duy trì nền văn minh của hàng tỷ con người. Nhưng giờ đây, nó đang chết dần. Khí hậu nóng lên, băng tuyết tan chảy, lượng nước ngọt suy giảm nhưng những hệ quả này không dừng lại ở cao nguyên khô cằn, mà còn lan rộng ra khắp Đông Nam Á. Vùng đất trù phú của đồng bằng sông Mê Kông, những cánh rừng mưa nhiệt đới, những thành phố ven biển – tất cả đều bị cuốn vào vòng xoáy của sự cạn kiệt.